Bản tin phục vụ lãnh đạo ngày 04-03-2020

15:27, Thứ Năm, 5-3-2020

Xem với cỡ chữ : A- A A+

Tải file tại đây

TIÊU ĐIỂM.. 1

1. Thủ tướng biểu dương Bộ Quốc phòng trong việc phòng, chống COVID-19. 1

2. Thủ tướng: Chính phủ thấu hiểu khó khăn của doanh nghiệp. 2

3.  Chỉ số PMI thể hiện Việt Nam đã ảnh hưởng nghiêm trọng ra sao vì Coronavirus. 3

KINH TẾ - ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP. 4

4.BVSC: Khó khăn của kinh tế Việt Nam mới chỉ bắt đầu! 4

5. TS. Nguyễn Đình Cung: “Cần tìm những khu vực tăng trưởng khác để bù đắp thiệt hại của Covid-19”. 5

6. Doanh nghiệp Đức: Việt Nam có tiềm năng phát triển cao hơn các thị trường Đông Nam Á khác! 6

7. Hà Nội: Vận hành cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. 8

PHÂN TÍCH -BÌNH LUẬN.. 8

8.  Chậm trễ - do đâu?. 8

QUẢN LÝ.. 9

9.  Đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh của Bộ Tài chính: Không theo kịp thực tế đời sống  9

10. Đề xuất mức thuế thu nhập cá nhân: Tính trách nhiệm ở đâu?. 11

11. Loay hoay thuế thu nhập cá nhân. 12

12. Trăn trở lương hưu của cán bộ không chuyên trách. 12

13.Quản lý và sử dụng đất nông, lâm trường: Chưa xử lý hết theo quy định hiện hành?. 14

14.Áp lực thăng hạng Chi phí tuân thủ pháp luật 15

15. Hải Phòng giải thích việc chi 269 tỷ đồng tặng quà người dân. 16

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH.. 17

16. Bộ NN&PTNT sẽ tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. 17

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH.. 18

17. Giải ngân vốn đầu tư công tăng 28,7% so với cùng kỳ. 18

18.Ngân sách “bay” 150 tỷ đồng thuế xuất nhập khẩu mỗi ngày vì dịch Covid -19. 18

THẾ GIỚI 18

19. Hàn Quốc, Iran, Italy, Nhật Bản là những điểm COVID-19 đáng lo nhất 18

 TIÊU ĐIỂM

Thủ tướng biểu dương Bộ Quốc phòng trong việc phòng, chống COVID-19

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc biểu dương Bộ Quốc phòng đã chủ động và đầy trách nhiệm trong việc cách ly người đến từ vùng dịch.

 Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch khẳng định thời gian qua Chính phủ và các Bộ, ngành đã thực hiện đúng đắn và kịp thời nhiều biện pháp mạnh mẽ để phòng chống dịch bệnh COVID-19.

 Bộ trưởng cũng kiến nghị Thủ tướng và Ban Chỉ đạo phòng chống dịch tiếp tục chỉ đạo mạnh mẽ các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19. Đồng thời đề nghị, các Bộ, ngành và địa phương không được phép chủ quan vì dịch bệnh COVID-19 trên thế giới đang lan rộng và diễn ra rất phức tạp.

 Bộ trưởng cũng khẳng định, Bộ Quốc phòng sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Mấy ngày qua, Bộ đang tổ chức diễn tập cơ chế và thực binh với 5 cấp độ của dịch COVID-19 ở 2 cấp, cấp Bộ Quốc phòng và cấp các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng.

 Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc biểu dương Bộ Quốc phòng đã chủ động và đầy trách nhiệm trong việc cách ly người đến từ vùng dịch. Thủ tướng đề nghị Bộ trưởng thay mặt Thủ tướng và Chính phủ chuyển lời biểu dương tới các sỹ quan, chiến sỹ đang tham gia cách ly người trở về từ vùng dịch chu đáo, ân cần và nhân văn. Đây được coi là như một chiến dịch dân vận toàn quân, qua đó hình ảnh anh Bộ đội cụ Hồ một lần nữa tiếp tục được khẳng định và tỏa sáng. (VTV.vn 03/03) Về đầu trang

Thủ tướng: Chính phủ thấu hiểu khó khăn của doanh nghiệp

Thủ tướng sẽ có chỉ thị về giải pháp tháo gỡ cho doanh nghiệp gặp khó vì Covid-19 sau khi lắng nghe góp ý từ các thành viên Chính phủ.

 Tại cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 2, ngày 3/3, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói: "Sản xuất kinh doanh gặp khó khăn vì dịch bệnh, Chính phủ thấu hiểu điều này để có biện pháp chỉ đạo sát hơn".

 Ông đề nghị các thành viên Chính phủ góp ý chỉ thị của Thủ tướng về các giải pháp cấp bách nhằm tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất, kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với Covid-19.

 Ông cũng cho biết, Covid-19 tác động trước hết đến hàng không, du lịch, tiếp đến là thương mại, đầu tư, đặc biệt là gián đoạn các chuỗi giá trị sản xuất.

 Từ khi dịch bùng quát, tốc độ tăng của nhiều ngành giảm so với cùng kỳ, trong đó có ngành chế biến chế tạo, tổng mức bán lẻ hàng hóa, nhập khẩu nguyên vật liệu, nhiều doanh nghiệp đối mặt nguy cơ thiếu nguyên liệu, sự đứt gãy chuỗi cung ứng...

 Hai tháng qua, giải ngân vốn đầu tư công còn thấp, khoảng 7,38%. Còn 6 bộ, cơ quan Trung ương và 9 địa phương chưa phân bổ hết vốn kế hoạch. Theo Thủ tướng, điều này cũng cần thảo luận để khắc phục.

 Ông Nguyễn Xuân Phúc nhìn nhận, tinh thần "chống dịch như chống giặc" của Chính phủ đã giúp nCoV không bị lan tràn ở Việt Nam, Việt Nam là nước ít ảnh hưởng nhất dù có đường biên giới dài và giao thương lớn với Trung Quốc.

 "Việt Nam đã bình tĩnh, có thể rất tỉnh táo trong nhìn nhận vấn đề theo nhãn quan của mình và chuẩn bị sẵn sàng mọi khả năng từ rất sớm", ông nói và ghi nhận, đánh giá cao nỗ lực của các cấp, ngành, lực lượng vũ trang, nhất là ngành y tế trong phòng, chống Covid-19.

 Đề cập tới những khách sạn gần như đóng cửa, nhiều khu du lịch vắng người nhưng ông nhấn mạnh, không thể vì doanh thu, mở cửa đón khách du lịch tràn lan để ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân. Trước tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp, ông yêu cầu tuyệt đối không chủ quan, do dự, tiếp tục thực hiện quyết liệt nhiệm vụ phòng chống dịch đã đề ra. (Vnexpress.net 03/03)Về đầu trang

Chỉ số PMI thể hiện Việt Nam đã ảnh hưởng nghiêm trọng ra sao vì Coronavirus

PMI – chỉ số nhà quản trị mua hàng của Việt Nam đã giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm trong tháng 2, báo hiệu sự suy giảm các điều kiện kinh doanh. Đây là lần giảm đầu tiên trong 4 năm qua.

 Các doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết dịch Covid-19 đã làm sản lượng giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 6/2013. Dịch bệnh do virus này cũng có tác động tiêu cực lên nhu cầu trong tháng 2.

 Số lượng đơn đặt hàng mới giảm lần đầu tiên kể từ tháng 11/2015 mà một phần là do giảm doanh thu xuất khẩu mới.

 Một số doanh nghiệp nhắc đến số lượng đơn đặt hàng mới từ Trung Quốc giảm do sự sụt giảm của hoạt động thương mại quốc tế. Tình trạng nhu cầu yếu đi đã làm các công ty sản xuất phải giảm hoạt động mua hàng vào thời điểm giữa quý 1. Đây là lần giảm đầu tiên trong hơn 4 năm và là mức giảm đáng kể trong lịch sử chỉ số PMI. Kết quả này chịu tác động của sự suy giảm ở cả hai tiểu lĩnh vực là hàng hóa tiêu dùng và hàng hoá trung gian.

 Trong tình trạng lo sợ sự lây lan của virus corona, việc làm trong lĩnh vực sản xuất của Việt Nam đã giảm trong tháng 2. Đây là lần giảm đầu tiên trong 4 tháng và là mức giảm nhanh nhất trong hơn 6,5 năm. Hàng hóa đầu tư cơ bản là tiểu lĩnh vực khảo sát duy nhất có số lượng nhân công tăng.

 Virus corona cũng ảnh hưởng tiêu cực lên chuỗi cung ứng trong kỳ khảo sát mới nhất. Hiệu quả hoạt động của người bán hàng đã suy giảm ở mức mạnh nhất kể từ tháng 6/2014. Tất cả 3 tiểu lĩnh vực được khảo sát đều có thời gian giao hàng chậm hơn.

 Về chi phí, tình trạng khan hiếm hàng hóa đầu vào thiết yếu đã làm gánh nặng chi phí tăng trong tháng 2. Một số doanh nghiệp được khảo sát nhắc đến những khó khăn trong việc nhập hàng hoá Trung Quốc. Tuy nhiên, tốc độ lạm phát chậm hơn so với tháng 1.

 Mặc dù chi phí đầu vào tăng, nhu cầu giảm đã làm các công ty phải giảm giá cả đầu ra trung bình. Đây là lần giảm đầu tiên trong ba tháng và mức giảm chung là vừa phải. Hàng hóa đầu tư cơ bản là tiểu lĩnh vực khảo sát duy nhất có giá cả đầu ra tăng.

 Cuối cùng, các công ty đã lạc quan về triển vọng kinh doanh trong 12 tháng tới nhưng mức độ lạc quan đã giảm thành mức thấp nhất trong lịch sử chỉ số do lo ngại về tác động kéo dài của Covid-19.

 Ông Andrew Harker, Phó Giám đốc tại IHS Markit nhận định virus corona đã ảnh hưởng nghiêm trọng lên lĩnh vực sản xuất của Việt Nam trong tháng 2, cả ở phía cung và phía cầu.

 "Đầu tiên, sự kết hợp giữa tình trạng giảm xuất khẩu đi Trung Quốc và sự lo sợ dịch bệnh trong nước đã làm suy giảm điều kiện kinh doanh, và đây là lần suy giảm đầu tiên trong bốn năm. Trong khi đó, các công ty đã gặp khó khăn trong việc nhập hàng hóa đầu vào thiết yếu từ Trung Quốc trong bối cảnh dịch bệnh, từ đó tạo áp lực tăng chi phí đầu vào. Tình trạng này, cùng với nhu cầu giảm và kéo theo là giá cả đầu ra giảm, đã tạo áp lực lên biên lợi nhuận", ông nói. (Trí Thức Trẻ 02/03)Về đầu trang

KINH TẾ - ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP

BVSC: Khó khăn của kinh tế Việt Nam mới chỉ bắt đầu!

Do diễn biến lan rộng của Covid-19 ở Hàn Quốc và các quốc gia khác, nhiều khả năng trong thời gian tới, tình hình có thể sẽ trở nên khó khăn hơn… Báo cáo của Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) nhận định.

 Tổng cục Thống kê cuối tuần trước đã công bố báo cáo về tình hình kinh tế xã hội Việt Nam tháng 2. Số liệu cho thấy, kinh tế Việt Nam chịu tác động tiêu cực từ sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19.

 Cụ thể, do thị trường tiêu thụ chịu ảnh hưởng bởi bệnh dịch, tính chung 2 tháng đầu năm 2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1004,2 nghìn tấn – tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước, giảm từ mức tăng 4,6% cùng kỳ năm 2019. 

Thêm vào đó, do tình trạng khan hiếm nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc do sản xuất tại nước này bị ngưng trệ, đã có tác động tiêu cực lên tăng trưởng sản xuất các ngành công nghiệp của Việt Nam.

 Việc đơn hàng mới (đặc biệt là đơn hàng từ Trung Quốc) giảm lần đầu tiên kể từ tháng 11/2015 cũng đã góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp trong 2 tháng đầu năm nay.

 Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tính chung cho 2 tháng đầu năm chỉ tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng trưởng 13,7% của cùng kỳ năm 2018, và 9,2% của cùng kỳ năm 2019.

 Động lực chính của ngành sản xuất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 7,4% (tính chung cho 2 tháng), thấp hơn so với mức 11,4% của cùng kỳ năm 2019.

 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 2, dù tăng 6% so với cùng kỳ năm trước nhưng giảm 7,9% so với tháng trước.

 Tính chung cả 2 tháng đầu năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 8,3%, đây là còn số thấp nhất kể từ 2014 đến nay.

 Vốn đầu tư FDI thực hiện trong 2 tháng ước tính đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước, giảm lần đầu tiên trong 5 năm qua.

 Chỉ số CPI tháng 2 giảm 0,17% so với tháng trước. Nguyên do là do dịch bệnh Covid-19, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của người dân giảm khiến cho giá dịch vụ du lịch, khách sạn, vui chơi giải trí cùng với giá xăng dầu giảm. Đáng chú ý, trong 2 tháng gần dây, do tác động của bệnh dịch, có gần 16,2 nghìn doanh nghiệp tạm dừng việc kinh doanh có thời hạn, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước.

 Theo quan điểm của BVSC, các số liệu thống kê trên cho thấy khó khăn mới chỉ bắt đầu. Do diễn biến lan rộng của Covid-19 ở Hàn Quốc và các quốc gia khác, nhiều khả năng trong thời gian tới, tình hình có thể sẽ trở nên khó khăn hơn, khi nguồn hàng tồn kho và dự trữ nguyên vật liệu của doanh nghiệp sản xuất không còn nhiều.

 Kinh tế Việt Nam nhiều khả năng sẽ chịu cú sốc từ phía cầu, nhu cầu trên toàn cầu sụt giảm, và từ phía cung, gián đoạn sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, BVSC nhận định. (Cafef.vn 03/03)Về đầu trang

TS. Nguyễn Đình Cung: “Cần tìm những khu vực tăng trưởng khác để bù đắp thiệt hại của Covid-19”

Dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (Covid-19) đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.

 Nhìn nhận về những động thái của Chính phủ trước những tác động từ dịch Covid-19 tới nền kinh tế, TS. Cung nhận định, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã đánh giá được tác động của dịch Covid-19 khá sớm đến nền kinh tế và cũng đã bắt đầu lượng hoá được ở mức độ nhất định tác động của nó.

 "Một trong những điểm lượng hoá đó là tăng trưởng kinh tế có thể không đạt như mục tiêu đặt ra - 6,8%, tuy nhiên Chính phủ và đặc biệt là Thủ tướng vẫn khẳng định không điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2020 cho thấy sự quyết liệt", TS. Cung chỉ ra.

 Theo ông Cung, việc không đạt mục tiêu tăng trưởng nằm trong kịch bản dịch bệnh xảy ra và Chính phủ không có hành động gì để giảm thiểu tác động của nó, còn việc khẳng định không điều chỉnh chỉ tiêu cho thấy sự quyết tâm của Chính phủ. 

Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bởi nó tạo niềm tin cho thị trường, cho thấy Chính phủ vẫn kiểm soát được tình hình và có những giải pháp để thay thế phần tăng trưởng "mất đi" do dịch bệnh, nguyên Viện trưởng CIEM nhìn nhận.

 Đặc biệt là, nếu Việt Nam vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra 6,8% sẽ cho thấy tiềm năng tăng trưởng của chúng ta rất lớn và không bị đứt gãy.

 Phân tích về nhận định trên, TS. Cung cho rằng, trong những năm vừa qua, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rất tốt và nếu kiểm soát được tình hình dịch bệnh, tốc độ tăng trưởng chỉ sụt giảm nhẹ sẽ là kịch bản khả quan nhất đối với Việt Nam.

 Còn trường hợp tăng trưởng kinh tế năm 2020 giảm xuống dưới 5% thì chúng ta sẽ mất rất nhiều thời gian để phục hồi. Vì tác động của dịch bệnh là nhất thời nên bằng mọi cách không nên để tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam bị "đứt gãy", TS Cung nhấn mạnh.

 Đồng thời, để đạt được mục tiêu này, TS. Cũng cũng chỉ ra ba nhóm giải pháp để phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19.

 Nhóm giải pháp thứ nhất mà lâu nay Chính phủ vẫn đang thực hiện đó là trên tổng thể chúng ta vẫn tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, có thể một số chỉ số có sự điều chỉnh nhất định nhưng về tổng thể vẫn giữ ổn định.

 Thứ hai là nhóm giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các ngành nghề chịu thiệt hại trực tiếp bởi dịch Covid-19. Giải pháp này nhằm giúp nhóm doanh nghiệp trong các ngành nghề bị ảnh hưởng trực tiếp của dịch Covid-19 đủ sức "chống chịu" để vượt qua thời kỳ khó khăn.

 Khi họ đủ sức vượt qua giai đoạn này thay vì lâm vào cảnh đóng cửa, giải thể thì họ có thể phục hồi nhanh chóng sau khi hết dịch. Điều này cũng giúp duy trì đà tăng trưởng của nền kinh tế. "Ở đây không nói đến gói giải pháp kích cầu mà là gói giải pháp hỗ trợ", ông Cung lưu ý.

 Hiện tại, Chính phủ cũng đang xây dựng những chính sách cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh và giải quyết khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp.

 Đơn cử như những giải pháp giúp giảm ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu, chuyển từ đường bộ sang hình thức vận chuyển khác mà không làm tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp.

 Tương tự, cần tạo điều kiện cho các nhóm lao động quay trở lại làm việc một cách sớm nhất có thể. Về dòng tiền, cần các chính sách như hoãn, giảm lãi suất, giãn nợ trên cơ sở đánh giá thiệt hại của doanh nghiệp đối với dịch Covid-19.

 Nhóm giải pháp cuối cùng là kích cầu. Chính phủ cũng cần hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp trong những biện pháp kích cầu. Cần chia sẻ với doanh nghiệp về chi phí trong việc thực hiện các gói kích cầu đối với ngành du lịch hay các mặt hàng khác, TS. Cung chỉ ra.

 Đặc biệt, ông Cung cũng cho rằng: "Cần tìm kiếm những 'khu vực' tăng trưởng khác để bù đắp thiệt hại do dịch Covid-19 gây ra".

 Nhấn mạnh về giải pháp này, TS. Cung chỉ ra rằng, Chính phủ nên tập trung vào giải ngân vốn đầu tư công một cách quyết liệt hơn, nhất quán hơn.

 "Cần tập trung giải ngân vào những công trình hạ tầng quan trọng có ý nghĩa tăng cầu trước mắt cho nền kinh tế, đồng thời tạo tiềm năng tăng trưởng cho những năm tiếp theo", TS. Cung chỉ ra. (Bizlive.vn 03/03, Hạ An)Về đầu trang

Doanh nghiệp Đức: Việt Nam có tiềm năng phát triển cao hơn các thị trường Đông Nam Á khác!

"Chúng tôi thích Việt Nam vì đây là thị trường đang phát triển, có tính cạnh tranh cao", ông Jens Holger Wohlthat, thành viên ban điều hành HDI Global SE nói.

 HDI Global SE, một công ty bảo hiểm công nghiệp Đức, hiện đang sở hữu 53,92% cổ phần của PVI. Ông Jens Holger Wohlthat cũng đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch HĐQT doanh nghiệp này. Nói về cơ hội đầu tư ở Việt Nam, ông Jens chỉ ra 4 yếu tố: thị trường đang phát triển nhanh; tính cạnh tranh lớn; sự quan tâm từ Chính phủ; rót vốn thành công vào doanh nghiệp nội địa.

 "Sự tăng trưởng đang đi ngang ở thị trường Đức, nên chúng tôi phải tìm đến những nơi khác để đầu tư. Việt Nam cũng như các thị trường ở Đông Nam Á khác đang chứa đựng những cơ hội đấy trong những năm tới", ông nói. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng tiềm năng phát triển của Việt Nam thì cao hơn những nước khác trong khu vực.

 Đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam thông qua PVI, cụ thể là bảo hiểm công nghiệp, ông Jens thừa nhận là có nhiều khó khăn. Tính cạnh tranh là thứ ông nhắc đến, dù ông cho biết khá thích thú với điều này khi nó cho thấy thị trường đang và sẽ tốt.

 Tại Việt Nam, mảng bảo hiểm phi nhân thọ vốn là "đất diễn" của doanh nghiệp nội địa. Các nhà đầu tư nước ngoài có lợi thế hơn với bảo hiểm nhân thọ. Nguyên nhân chủ yếu được ông Jens chỉ ra là tính chất địa phương của loại hình kinh doanh này.

 "Ngôn ngữ là rào cản đầu tiên. Bảo hiểm công nghiệp yếu tố chuyên môn, chuyên gia rất lớn", ông nói. Rào cản ngoại ngữ chỉ là một phần của yếu tố khác biệt văn hoá được ông nhắc đến. Các doanh nghiệp bảo hiểm địa phương có sự thấu hiểu với khách hàng. "Họ có môi trường làm việc với các khách hàng lớn ở một thời gian dài trong quá khứ".

 Dù vậy HDI Global SE tin vào quyết định của mình khi đầu tư vào một doanh nghiệp địa phương vốn có chỗ đứng trên thị trường từ trước. Đây cũng là cách thức để một doanh nghiệp ngoại có thể dễ dàng tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam, vốn có sự cạnh tranh rất lớn.

 Ông Jens Holger Wohlthat cũng cho biết việc vận hành, kinh doanh chủ yếu vẫn là người Việt tham gia, đại diện phía doanh nghiệp Đức chỉ giữ vai trò tham vấn.

 "Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không chỉ cứ là con số, phải hiểu môi trường của nơi đầu tư, muốn thành công phải hoà vào nơi đó mới thành công được", ông nhấn mạnh.

 Chủ tịch HĐQT PVI nói rằng theo ghi nhận đầy đủ, PVI hiện chiếm khoảng 15% thị phần bảo hiểm phi nhân thọ. Trong thời gian tới, dù vẫn hướng đến việc tăng tỷ lệ thị phần, nhưng ông Jens nhấn mạnh đấy không phải yếu tố quan trọng hàng đầu. Tính hiệu quả mới là thứ đơn vị này hướng đến.

 "Có quá nhiều thị trường quan trọng sự hiện diện của họ hơn là hiệu quả kinh doanh", ông Jens nhận xét.

 "Nhớ lại cách đây vài năm trước đa số xe chạy ngoài đường là xe mới, những xe đó cần bảo hiểm, chúng tôi phải có thị trường từ những chiếc xe này. Nhưng khi qua thời điểm đó thì cần củng cố để giữ được thị trường bằng cách tăng tính hiệu quả. Mở rộng thị trường thì tốt nhưng nếu đánh đổi thì không".

 Bên cạnh đó, với vai trò cổ đông nắm quyền chi phối, ông Jens Holger Wohlthat cũng không giấu tham vọng đưa PVI phát triển ra thị trường Đông Nam Á. "Tôi đặt mục tiêu cho mình như vậy. Nghĩa là thành công của tôi có hay không phụ thuộc vào điều này", ông nhấn mạnh. (Cafef.vn 03/03)Về đầu trang

Hà Nội: Vận hành cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội là địa chỉ để các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tìm kiếm thông tin hữu ích, hợp tác, quảng bá miễn phí các sản phẩm tới khách hàng, đối tác.

 Trung tâm hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội (Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội) vừa đưa vào vận hành Cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa chỉ hotrodoanhnghiep.hanoi.gov.vn.

 Theo chia sẻ của ông Lê Văn Quân, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa TP.Hà Nội: “Được xây dựng và đưa vào vận hành nhằm triển khai Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội là một địa chỉ để các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tìm kiếm thông tin hữu ích cho hoạt động kinh doanh cũng như kết nối hợp tác, quảng bá miễn phí các sản phẩm tới khách hàng, đối tác”.

 Thông qua Cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm những thông tin hữu ích cho hoạt động kinh doanh cũng như quảng bá sản phẩm của mình tới các đối tác

 Cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội cũng hướng tới trở thành nơi tổng hợp thông tin về các chương trình chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Chính phủ cũng như thành phố Hà Nội để hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố.

 Đây cũng sẽ nơi tổng hợp tiếp nhận các nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội về các vấn đề cần tháo gỡ liên quan đến các hoạt động của doanh nghiệp; nơi chia sẻ các nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp như chuyên gia, tín dụng từ các nhà đầu tư, quỹ, kết nối thị trường trong và ngoài nước; đồng thời là địa chỉ trực tuyến để chia sẻ các tài liệu kiến thức, kinh nghiệm, mô hình quản trị doanh nghiệp tiêu biểu làm bài học cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham khảo, kết nối chia sẻ lan tỏa trong cộng đồng doanh nghiệp Thủ đô.ưTất cả các nhân, tổ chức và doanh nghiệp có nhu cầu tiếp cận, kết nối thông tin các chính sách chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội đều có thể đăng ký tham gia để trở thành thành viên của Cổng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội.

 “Các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp muốn tham gia và trở thành thành viên sẽ được Trung tâm kiểm tra thông tin hồ sơ đăng ký. Cổng có chính sách thành viên với mục đích kết nối dữ liệu phục vụ mục tiêu kết nối thị trường, xác nhận thông tin doanh nghiệp thụ hưởng các chính sách”, ông Quân cho biết thêm. (Enternews.vn 3/3, Minh Ngọc) Về đầu trang

PHÂN TÍCH -BÌNH LUẬN

Chậm trễ - do đâu?

Sau nhiều tranh luận, các sai phạm tại tổ hợp nhà hàng, nhà nghỉ Panorama Mã Pì Lèng, huyện Mèo Vạc, Hà Giang vẫn chưa được các cơ quan chức năng xử lý. Còn tại dự án 8B Lê Trực, Ba Đình, Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã 6 lần yêu cầu UBND TP Hà Nội tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm nhưng những sai phạm cũng vẫn còn đó, dù Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Đức Chung đã từng phát biểu: Để bảo đảm kỷ cương, phép nước thì có đập cả tòa nhà 8B Lê Trực cũng phải làm...

 Đây chỉ là hai trong số rất nhiều công trình xây dựng sai phép, trái phép... dẫn đến những thiệt hại không nhỏ về kinh tế cho chủ đầu tư; ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của khách hàng và cảnh quan môi trường. Quan trọng hơn là gây bất bình trong dư luận. Như tại tổ hợp nhà hàng, nhà nghỉ Panorama Mã Pì Lèng, gần nửa năm qua, với nhiều cuộc họp bàn nhưng kết quả là công trình vẫn còn nguyên. Hay tại dự án 8B Lê Trực, sau nhiều tranh luận về tính pháp lý của giấy phép xây dựng, mấu chốt của sự việc là phần vi phạm phải được phá dỡ cũng chưa thể thực hiện được bởi những lý do như ảnh hưởng đến kết cấu công trình, do không có đơn vị nào nhận thực hiện tháo dỡ... Và diễn biến mới nhất là tại buổi giao ban báo chí của Thành ủy Hà Nội diễn ra chiều 25.2, Chủ tịch UBND quận Ba Đình đã đưa ra đề xuất mời lực lượng công binh tham gia tháo dỡ tầng 17 và 18 để bảo đảm an toàn công trình...

 Vi phạm trật tự xây dựng vẫn có những diễn biến phức tạp, không ít công trình vi phạm dù đã được chỉ rõ nhưng việc xử lý chậm và chưa triệt để - dù các cơ quan chức năng luôn khẳng định sẽ kiểm tra và xử lý nghiêm, nhưng xử lý như thế nào thì còn đang tìm giải pháp. Hay tại một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Xây dựng, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đã nêu vấn đề: Nhiều công trình vi phạm, đặc biệt là các công trình sai phép, không phép tồn tại trong thời gian dài nhưng chậm được xử lý hoặc phạt cho tồn tại. Đề nghị đánh giá thực trạng này? Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà đã thừa nhận những tồn tại trong lĩnh vực xây dựng, đồng thời cho biết, theo Nghị định 139, từ ngày 1.1.2018 sẽ không còn phạt rồi cho tồn tại. Nếu sai phép, không đúng phép phải khôi phục công trình theo đúng quyết định.

 Câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao những sai phạm trong lĩnh vực xây dựng không được phát hiện và ngăn chặn ngay từ đầu mà cứ phải đến khi sắp hoàn thành, hoàn thành hoặc đã đưa vào sử dụng thì các cơ quan chức năng mới phát hiện? Và khi đã phát hiện thì chậm trễ, lúng túng trong xử lý? Phải chăng là do pháp luật còn “kẽ hở”, “khoảng trống” hay khâu thực thi pháp luật đang “có vấn đề”?

 Những “nghi vấn” giả thuyết trên cần được trả lời thấu đáo chứ không thể theo kiểu đã thống nhất quan điểm, phương hướng giải quyết; đề nghị chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý sai phạm theo đúng quy định pháp luật hoặc tham vấn ý kiến để có giải pháp phù hợp... Có như vậy mới có thể ngăn chặn được tình trạng xây dựng sai phép, trái phép hiện nay. (Đại biểu nhân dân 03/03, Linh Trang)Về đầu trang

QUẢN LÝ

Đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh của Bộ Tài chính: Không theo kịp thực tế đời sống

Nhiều ý kiến cho rằng, đề xuất của Bộ Tài chính tăng ngưỡng chịu thuế thu nhập cá nhân lên 11 triệu/tháng với người nộp thuế và 4,4 triệu/tháng với người phụ thuộc không theo kịp thực tế đời sống. Hơn nữa, mức giảm trừ gia cảnh điều chỉnh là để áp dụng cho 5 - 7 năm tới trong khi Bộ Tài chính lại dựa trên chênh lệch giữa chỉ số giá từ tháng 7.2013 đến cuối năm 2019 để đề xuất dẫn tới khả năng chưa áp dụng đã lạc hậu.

 Bộ Tài chính vừa công bố phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân để lấy ý kiến trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định. Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế từ 9 triệu đồng/tháng lên 11 triệu đồng/tháng; người phụ thuộc từ 3,6 triệu đồng/tháng lên 4,4 triệu đồng/tháng.

 Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) Phạm Đình Thi cho biết, việc Bộ Tài chính đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh thêm 2 triệu/tháng cho người nộp thuế và thêm 800.000/tháng cho người phụ thuộc là dựa trên mức tăng tương ứng với mức biến động của chỉ số giá tiêu dùng. Theo số liệu Tổng cục Thống kê cung cấp, chỉ số CPI tại thời điểm cuối tháng 12.2019 so với thời điểm 1.7.2013 là 123,2%, tăng 23,2%.

 Đề xuất của Bộ Tài chính là kết quả của phép tính: 1,232 x 9 triệu đồng = 11,088 triệu đồng, làm tròn 11 triệu đồng đối với người nộp thuế; 1,232 x 3,6 triệu đồng = 4,4352 triệu đồng, làm tròn 4,4 triệu đồng đối với người phụ thuộc.

 Theo giải trình từ Bộ Tài chính, việc điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho người nộp thuế trong bối cảnh giá cả, lạm phát tăng so với thời điểm năm 2013. Số thuế phải nộp sẽ được giảm cho mọi đối tượng, trong đó mức độ giảm số thuế phải nộp của nhóm người nộp thuế ở bậc thấp sẽ cao hơn. Ví dụ theo quy định hiện hành, người có thu nhập đến 15 triệu/tháng (có 1 người phụ thuộc) phải nộp thuế ở mức 120.000/tháng nhưng theo quy định mới sẽ không phải nộp thuế. Thu nhập đến 20 triệu/tháng (có 1 người phụ thuộc) hiện nộp thuế 490.000 đồng/tháng (tương đương 2,5% thu nhập), còn theo mức giảm trừ gia cảnh mới sẽ nộp 230.000 đồng/tháng, tương đương giảm 260.000 đồng tiền thuế mỗi tháng (giảm hơn 48% số thuế phải nộp so với hiện hành).

 Chuyên gia kinh tế Nguyến Trí Hiếu cho rằng, trong lúc dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tác động đến mọi mặt của nền kinh tế, việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cũng là một cách hỗ trợ người dân và kích cầu vì khi người dân được giảm thuế thì có thể dùng tiền đó để chi tiêu nhiều hơn. Tuy vậy, ông cho rằng đề xuất của Bộ Tài chính “không phù hợp với thực tế cuộc sống”. Theo ông, nhiều năm không điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh trong khi mỗi năm lạm phát dưới 3% hoặc cao hơn. Nâng ngưỡng chịu thuế từ 9 lên 11 triệu đồng cũng “đáng kể” nhưng không thể bù trừ lại cho mức tăng lạm phát.

 Dưới góc độ là người nộp thuế, chị Hà Cẩm Anh (nhân viên văn phòng tại Hà Nội) cho biết, so với 7 năm trước, thu nhập gần như không tăng trong khi chi phí sinh hoạt ngày càng đắt đỏ. Chị đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế lên cao hơn 11 triệu đồng đồng thời tăng mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc lên 6 triệu đồng. Theo chị Cẩm Anh, mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc là 4,4 triệu/tháng như Bộ Tài chính đề xuất không đủ chi phí ăn học cho một đứa trẻ.

 Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh điều chỉnh là để áp dụng cho tương lai, tức 5 - 7 năm tới. Trong khi đó, Bộ Tài chính dựa trên chênh lệch giữa chỉ số giá từ tháng 7.2013 đến cuối năm 2019 để đề xuất mức giảm trừ gia cảnh mới nên chưa áp dụng đã lạc hậu, người nộp thuế phải chịu thiệt vì mức giảm trừ không theo kịp diễn biến thực tế. Theo ông, Bộ Tài chính nên nâng mức giảm trừ cho người nộp thuế lên 12 triệu đồng/tháng; nâng mức giảm trừ cho người phụ thuộc lên 5,5 - 6 triệu đồng.

 Ông cũng đề xuất nên giãn các bậc thuế trong biểu thuế lũy tiến từng phần, đồng thời áp dụng cách tính giảm trừ theo mức lương cơ sở để khi điều chỉnh lương, mức giảm trừ cũng tự động tăng theo. Ngoài ra, phải xem xét mức tăng cho hợp lý để người có thu nhập thấp phải đóng ít, để mức chênh lệch giữa những mức thuế suất cao ít hơn, từ đó khuyến khích người thu nhập cao đóng góp nhiều hơn cho xã hội, bảo đảm tính công bằng. (Đại biểu nhân dân 03/03, Thảo Anh)Về đầu trang

Đề xuất mức thuế thu nhập cá nhân: Tính trách nhiệm ở đâu?

Cách Bộ Tài chính lấy mức giảm trừ gia cảnh hiện tại cho người nộp thuế thu nhập cá nhân (9 triệu đồng) nhân với tốc độ gia tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của năm 2019 so với 2013 (23%) để ra con số làm tròn 11 triệu đồng là mức giảm trừ mới thật đơn giản đến lạnh lùng. Một chính sách tác động lên sinh kế của hơn 90 triệu người lại được tính toán và hoạch định quá giản đơn. Vậy thì tính trách nhiệm, độ chính xác và vị dân nằm ở đâu?

 Dưới góc độ chuyên môn, khi người ta lấy giá trị của một hàng hóa điều chỉnh theo CPI là để quy về trạng thái ngang giá của tài sản cơ sở ở quá khứ và hiện tại. Nói dễ hiểu hơn, giả sử bữa cơm của 1 gia đình 4 người vào năm 2017 có trị giá 100.000 đồng thì với cách tính trên năm 2019 là 123.000 đồng. Nghĩa là thành phần, số lượng và chất lượng bữa ăn không có gì thay đổi.

 Với cách tiếp cận vấn đề của Bộ Tài chính, lẽ nào sau gần 10 năm, chất lượng cuộc sống của người dân vẫn dẫm chân tại chỗ, không tiến triển thêm chút nào? Trong khi những con số thống kê cho thấy thành quả tăng trưởng kinh tế, chất lượng đời sống, xã hội được cải thiện từng ngày, không lẽ mức sống của người dân thụt lùi? Cách tính của Bộ Tài chính chỉ nhằm một mục đích duy nhất: Tối đa hóa số thuế thu được và vi phạm nguyên tắc bồi dưỡng nguồn thu!

 Nếu muốn tính cho gọn, Bộ Tài chính phải dùng tốc độ tăng trưởng GDP để đo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Vì đây là “ngưỡng thu nhập chịu thuế” nên phải điều chỉnh bằng tốc độ tăng thu nhập, chứ không được đánh tráo khái niệm bằng “tốc độ tăng CPI”.  

 Theo đó cứ cho rằng tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân là 6,5% trong giai đoạn 2013 - 2019 thì để luật thuế có hiệu lực trong năm 2020, mức tăng trưởng thu nhập tích lũy là hơn 55%. Vì vậy, ngưỡng thu nhập chịu thuế tối thiểu phải là 14 triệu đồng. Tương tự, mức miễn trừ đối với người phụ thuộc phải được làm tròn 6 triệu đồng/người. Nghĩa là một người có thu nhập bình quân một tháng 20 triệu, phải nuôi thêm một người phụ thuộc sẽ không phải đóng thuế thu nhập cá nhân.

 Hiện nay, Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định trường hợp CPI biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Tuy nhiên,tốt nhất là ngưỡng thu nhập chịu thuế phải được điều chỉnh hàng năm để bám sát thực tiễn cuộc sống. (Đại biểu nhân dân 03/03, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Quốc Bảo - Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh)Về đầu trang

Loay hoay thuế thu nhập cá nhân

Đề xuất điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) từ 9 triệu đồng/tháng lên 11 triệu đồng/tháng đơn thuần chỉ là cộng thêm tỉ lệ lạm phát so với mức hiện hành. Do đó, đây là việc bắt buộc phải thay đổi theo luật định, ngành thuế không hề nêu ra được quan điểm gì mới trong bản dự thảo lần này.

 Trong khi đó, vấn đề tồn đọng liên quan đến thuế TNCN nằm ở cấp độ luật. Theo đó, luật hiện hành không thể hiện rõ triết lý, nguyên tắc đánh thuế TNCN theo hướng đánh vào mọi đối tượng có thu nhập hay chỉ với người có thu nhập cao? Luật cũng không thể hiện rõ nguyên tắc ấn định mức giảm trừ gia cảnh.

 Theo tôi, mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không dựa vào mức sống tối thiểu, không dựa vào thu nhập bình quân đầu người, mức lương tối thiểu chung cũng như mức lương tối thiểu theo vùng. Chẳng hạn, lương tối thiểu theo 4 vùng chênh nhau đến 1,5 lần nhưng mức thu nhập khởi điểm đóng thuế và giảm trừ gia cảnh lại bằng nhau. Còn nếu căn cứ vào mức sống hay mức lương tối thiểu thì mức giảm trừ gia cảnh lại là quá cao... Để hợp lý, phải tính giảm trừ kết hợp giữa 2 tiêu chí là khấu trừ cố định và khấu trừ một số nhu cầu chi tiêu tối thiểu, có hóa đơn, chứng từ, căn cứ hợp lý. Ví dụ, một người tuy thu nhập khá cao nhưng cuộc sống còn khó khăn do phải trả chi phí học hành, bệnh tật, thuê nhà ở... mà vẫn phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp hơn nhưng sống dư dả thì quá bất công.

 Chưa kể, luật quy định rõ là điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh khi tỉ lệ lạm phát trên 20% nhưng mấy năm nay, chúng ta vẫn loay hoay không thay đổi được mức giảm trừ gia cảnh. Con số lạm phát là do nhà nước công bố, khi nào đạt mức lạm phát theo quy định thì phải mặc định được áp vào việc thu thuế hằng năm theo thông báo của Tổng cục Thuế, không cần thiết Chính phủ phải trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Mặt khác, con số lạm phát trên 20% mới điều chỉnh giảm trừ gia cảnh là quá cao, cần giảm một nửa để tránh người nộp thuế bị thiệt dài hạn.

 Tóm lại, cần có quan điểm cải cách, thay đổi cơ bản Luật Thuế TNCN cho hợp lý, công bằng hơn trong thời kỳ công nghệ phát triển như hiện nay - khi các doanh nghiệp chuẩn bị chuyển hết sang xuất hóa đơn điện tử. Theo đó, việc cải cách thuế suất, bậc thuế và các loại giảm trừ để cho ra số tiền phải nộp thuế quan trọng hơn là chỉ loay hoay tính mức khởi điểm phải nộp thuế và giảm trừ gia cảnh.

 Cần giảm 7 bậc xuống còn 4-5 bậc và giảm thuế suất bậc đầu tiên cũng như bậc cuối cùng, khi đó không còn quá quan trọng trong việc điều chỉnh giảm trừ gia cảnh mà có thể giữ ổn định hàng chục năm, cho dù lạm phát lớn. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho người nộp thuế hoàn thành nghĩa vụ trong trường hợp có nhiều nguồn thu nhập, thay vì lâu nay vô cùng khó khăn trong việc quyết toán thuế. (Người lao động 03/03, Luật sư Trương Thanh Đức)Về đầu trang

Trăn trở lương hưu của cán bộ không chuyên trách

Chuẩn nghèo của TPHCM là 28 triệu đồng/người/năm (tương đương 2,3 triệu đồng/người/tháng). Mức đóng BHXH của cán bộ không chuyên trách thấp hơn rất nhiều so với chuẩn nghèo của TPHCM, đương nhiên, mức hưởng lương hưu, cũng tương tự.

 TPHCM có khoảng 7.000 cán bộ không chuyên trách tại 322 phường, xã, thị trấn (gọi chung là phường). Cán bộ không chuyên trách cấp phường ở một đô thị lớn như TPHCM có khối lượng công việc nhiều, không khác biệt so với cán bộ công chức cùng cấp, nhưng mức được đóng BHXH và hưởng các quyền lợi liên quan lại rất thấp.

 Cán bộ không chuyên trách ở phường thường phụ trách kinh tế, giảm nghèo, bình đẳng giới - trẻ em, phó chủ tịch MTTQ phường, phó bí thư đoàn, phó chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ…

 Theo quy định của Luật BHXH sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định, từ năm 2016, cán bộ không chuyên trách phường chỉ được tham gia BHXH bắt buộc với mức đóng là 22% mức lương cơ sở (lương cơ sở hiện nay là 1.490.000 đồng/tháng), để hưởng 2 chế độ hưu trí, tử tuất.

 Do đó, từ năm 2016, cán bộ không chuyên trách phường mặc dù tham gia BHXH bắt buộc nhưng sẽ không được hưởng 3 chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Trong thực tế, 3 chế độ này lại là những nhu cầu, quyền lợi sát sườn.

 Việc không được hưởng 3 chế độ khiến người lao động chịu nhiều thiệt thòi khi ốm đau và nhất là nữ cán bộ không chuyên trách khi sinh con không được hưởng chế độ thai sản.

 Để bù đắp cho cán bộ không chuyên trách, từ năm 2018 đến nay, TPHCM dùng ngân sách để hỗ trợ 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cho đối tượng này, theo Nghị quyết số 22/2017/NQ-HĐND của HĐND TPHCM. Đây là sự vận dụng riêng, chính sách hỗ trợ riêng của TPHCM đối với cán bộ không chuyên trách.

 Trên địa bàn quận Phú Nhuận, trong hơn 500 cán bộ, công chức, người làm việc tại UBND 15 phường thì có đến một nửa là cán bộ không chuyên trách. Thời gian qua, nhiều trường hợp cán bộ không chuyên trách đã được TPHCM hỗ trợ 3 chế độ mà Luật BHXH không có. Nhiều cán bộ không chuyên trách nữ được hưởng chế độ thai sản với mức hỗ trợ khoảng 10 triệu đồng/trường hợp.

 Phó Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận Nguyễn Đông Tùng nhận xét, sự hỗ trợ của TPHCM tạo động lực giúp cán bộ không chuyên trách an tâm công tác, gắn bó với địa phương và thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn.

 Tại quận Thủ Đức, đội ngũ cán bộ không chuyên trách là 273 người. Nhìn chung, việc hỗ trợ cho cán bộ không chuyên trách trong thời gian nghỉ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp đã giúp cán bộ không chuyên trách ở TPHCM bớt vất vả. 

Tuy nhiên, Chủ tịch UBND quận Thủ Đức Đặng Nguyễn Thanh Minh nhận xét, các chế độ vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu thực tế đời sống của cán bộ không chuyên trách do quy định của Luật BHXH về mức đóng BHXH rất thấp so với mức lương hiện hưởng. Ví dụ, cán bộ không chuyên trách hưởng lương theo hệ số 2,34; tuy nhiên, mức tham gia BHXH của cán bộ không chuyên trách mà luật quy định lại chỉ ở mức 1,00 - rất thấp. Do đó, tương ứng, các chế độ hưởng trợ cấp theo mức 1,00 cũng rất thấp.

 Phó Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận Nguyễn Đông Tùng cũng cho rằng, mức đóng BHXH đối với cán bộ không chuyên trách phường là quá thấp (lương cơ sở x 22%), dẫn tới mức hưởng các chế độ còn thấp. Do đó, khi nữ cán bộ không chuyên trách phường nghỉ thai sản thì số tiền được hưởng thấp hơn nhiều so với mức lương thực lãnh và có sự chênh lệch khá lớn so với nữ cán bộ công chức. Quận Phú Nhuận đề nghị, cán bộ không chuyên trách phường được tham gia BHXH theo hệ số lương thực lãnh, từ đó, các mức hưởng theo chế độ quy định tương xứng. (Sggp.org.vn 3/3, Mạnh Hòa) Về đầu trang

Quản lý và sử dụng đất nông, lâm trường: Chưa xử lý hết theo quy định hiện hành?

Theo nhiều chuyên gia về nông, lâm trường, vấn đề vẫn còn nguyên giá trị được nêu ra trong Báo cáo số 721/BC - HĐDT của Hội đồng Dân tộc là quản lý tài chính đối với đất đai nông, lâm trường còn nhiều bất cập, chưa xử lý hết theo quy định. Việc xác định không rõ diện tích, không rõ loại đất để làm cơ sở cho các khoản thu chưa được triển khai, làm thất thoát các khoản thu trong việc sử dụng đất được giao.

 Đánh giá của các chuyên gia về nông, lâm trường cho thấy, pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai nông, lâm trường từ thời kỳ đổi mới đến nay đã có nhiều tác động tích cực đến cơ cấu tổ chức và hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, bước đầu đem lại hiệu quả hơn trong sử dụng đất đai có nguồn gốc nông lâm trường.

 Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội Trần Trung Hiếu nhấn mạnh, việc sắp xếp, đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty đổi mới quản trị doanh nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh. Một số công ty đã tổ chức lại sản xuất theo mô hình kinh doanh tổng hợp, hình thành vùng nguyên liệu tập trung gắn với chế biến và thị trường… Nhiều công ty nông, lâm nghiệp đã khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương, tăng thu nhập từ kinh tế rừng, giảm dần tình trạng khai thác rừng trái phép, tranh chấp đất đai, an ninh trật tự trên địa bàn được tăng cường, cơ sở vật chất, hạ tầng được cải thiện.

 Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng, việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường nhưng không thuộc diện đổi mới, sắp xếp và phát triển theo quy định tại Khoản 2, Điều 2, Nghị quyết 112/2015/NQ-QH13 của Quốc hội về “tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông lâm trường quốc doanh do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác sử dụng” còn chậm. Đất đai chủ yếu là khoán trắng, phát canh thu tô, không quản lý được sản phẩm giao khoán. Thu nhập của công ty chủ yếu dựa vào hoạt động dịch vụ nhưng một số địa phương, tổng công ty vẫn trình phương án chuyển đổi mà chưa mạnh dạn đề xuất phương án giải thể. Quy mô quản lý đất đai của các công ty nông, lâm nghiệp còn quá lớn, không tương xứng với nhân lực, công cụ quản lý. Tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, vi phạm pháp luật về đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường vẫn chưa được giải quyết triệt để, nhiều vụ việc kéo dài, chưa có biện pháp xử lý

 Tại Hội thảo pháp luật về quản lý và sử dụng đất nông, lâm trường ở Việt Nam - Một số vấn đề đặt ra, các đại biểu còn cho biết thêm, vấn đề vẫn còn nguyên giá trị được nêu ra trong Báo cáo số 721/BC - HĐDT của Hội đồng Dân tộc là “quản lý tài chính đối với đất đai nông, lâm trường còn nhiều bất cập, chưa làm hết quy định. Việc xác định không rõ diện tích, không rõ loại đất để làm cơ sở cho các khoản thu chưa được triển khai làm thất thoát các khoản thu trong việc sử dụng đất được giao. Việc chuyển đổi từ hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất sang thuê đất của các đơn vị còn thiếu thống nhất về thời điểm nên xác định nghĩa vụ tài chính về đất của các cơ quan chức năng gặp nhiều lúng túng”.

 Để khắc phục tình trạng này, mong muốn của nhiều chuyên gia là cần sớm hoàn thành xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án tăng cường quản lý đối với đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh không thuộc diện sắp xếp theo quy định tại Nghị định 118/2014/NĐ - CP của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp, để thực hiện yêu cầu của Nghị quyết số 112/2015/NQ - QH13 của Quốc hội. Sửa đổi, bổ sung hình thức phá sản công ty nông, lâm nghiệp, giải thể đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ kéo dài; cơ chế giao khoán sử dụng đất nông nghiệp của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật.

 Kiên quyết giải thể, cho phá sản đối với các công ty nông, lâm nghiệp sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, không quản lý được đất đai, giao khoán trắng, hoặc giao khoán đất sử dụng không hiệu quả, sai mục đích, không thực hiện được các nghĩa vụ về tài chính doanh nghiệp, tài chính đất đai. Tiếp tục đẩy nhanh việc đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đã trả về cho địa phương để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng.

 Các bộ, ngành, địa phương, ngoài trách nhiệm chuyên môn theo quy định cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về đất đai, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giải quyết dứt điểm tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, cho thuê, cho mượn sai mục đích đang tồn đọng trong các công ty nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng.

 Phó Cục trưởng Cục đăng ký đất đai, Tổng cục Quản lý đất đai Phạm Ngô Hiếu đề nghị, Quốc hội tiếp tục giám sát việc quản lý, sử dụng đất của các công ty nông, lâm trường thuộc sở hữu nhà nước, các ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng, trong đó tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu đã nêu tại Nghị quyết số 112/2015/NQ - QH13 của Quốc hội.

 Thực tiễn quản lý, sử dụng đất đai từ nông lâm trường qua những giai đoạn khác nhau cho thấy, việc thực thi chính sách, pháp luật về lĩnh vực này có những ưu điểm và tồn tại khác nhau. Phân tích, đánh giá đúng những ưu điểm, tồn tại sẽ giúp hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai nói chung và đất đai nông, lâm trường nói riêng. (Đại biểu nhân dân 03/03, Ý Nhi)Về đầu trang

Áp lực thăng hạng Chi phí tuân thủ pháp luật

Năm 2019 chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số B1) của Việt Nam đã được nâng cao về điểm số và thứ hạng, góp phần nâng cao thứ hạng về cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo đó, năm 2019, chỉ số B1 của Việt Nam đạt 3.4/7, xếp thứ 79/141 nước (tăng 17 bậc so với năm 2018). Mặc dù có sự cải thiện, tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một trong số 69/141 quốc gia có điểm số chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật dưới điểm trung bình trên thang điểm 7 (dưới 3.5/7). 

Ngày 1.1.2020 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020. Trong đó, Chính phủ tiếp tục đặt ra mục tiêu cải thiện điểm số và duy trì thứ hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật trong năm 2020. Ngoài ra, để cải thiện Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0) trong năm 2020, Chỉ số B1 cũng là một trong 6 chỉ số được Chính phủ để ra mục tiêu tiếp tục cải thiện, góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Cụ thể: cải thiện điểm số và duy trì thứ hạng chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (B1); nâng xếp hạng chỉ số Chất lượng quản lý hành chính đất đai (B3) lên từ 5 - 7 bậc; nâng xếp hạng nhóm chỉ số Ứng dụng công nghệ thông tin (B5) lên từ 2-3 bậc; nâng xếp hạng chỉ số Chất lượng đào tạo nghề (B6) lên từ 5-10 bậc; nâng xếp hạng chỉ số Tăng trưởng về doanh nghiệp đổi mới sáng tạo (B9) lên từ 3-5 bậc; nâng xếp hạng chỉ số Công ty có ý tưởng sáng tạo mới đột phá (B10) lên từ 2-3 bậc. Như vậy, có thể thấy, Chỉ số B1 đóng một vai trò quan trọng trong việc xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia

 Để hoàn thành mục tiêu này, Bộ Tư pháp cần rà soát và hoàn thiện tài liệu, tổ chức tập huấn, hướng dẫn để bảo đảm các Bộ, cơ quan, địa phương có cách hiểu đúng, đầy đủ, thống nhất về mục tiêu các bộ chỉ số, nhóm chỉ số, chỉ số thành phần, mẫu biểu báo cáo. Đồng thời, hỗ trợ, kiểm tra, theo dõi, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện việc cải thiện, nâng xếp hạng chỉ số B1 tại các bộ, ngành, địa phương và cung cấp, cập nhật đầy đủ thông tin cần thiết cho các cơ quan có liên quan, bảo đảm việc đánh giá, xếp hạng khách quan, chính xác.

 Bên cạnh đó, hiện nay có rất nhiều loại chỉ số mặc dù có tên gọi khác nhau, nhưng nội dung, phương pháp điều tra xã hội học, cũng như đối tượng khảo sát và mục tiêu phục vụ là giống nhau. Chính vì lẽ đó, các bộ ngành liên quan như Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ cần  nghiên cứu, lồng ghép các tiêu chí đánh giá, xếp hạng của chỉ số B1 vào nội dung khảo sát hàng năm của Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) và chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS). Nếu làm được điều này, sẽ giảm áp lực cho công tác thực hiện, khảo sát, đánh giá các chỉ số liên quan. (Đại biểu nhân dân 03/03, Đình Khoa)Về đầu trang

Hải Phòng giải thích việc chi 269 tỷ đồng tặng quà người dân

Ngày 3/3, ông Nguyễn Xuân Bình, Phó chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, thông tin về việc thành phố chi 269 tỷ đồng tặng quà cho hơn 587.000 hộ dân trên địa bàn, mỗi hộ một bộ ấm chén cao cấp và cờ Tổ quốc.

 Theo đó, trước ý kiến cho rằng việc chi tiền như trên là "lãng phí, không cần thiết"..., ông Bình giải thích đây là món quà có ý nghĩa về mặt tinh thần, là vật kỷ niệm mà thành phố muốn tri ân tới toàn thể nhân dân đã cùng các cấp chính quyền xây dựng, phát triển Hải Phòng trong suốt thời gian qua. "Món quà nhỏ sẽ trở thành kỷ vật, không thể đem quy đổi thành tiền", ông Bình nói.

 Theo lãnh đạo thành phố Hải Phòng, "trong một gia đình đôi khi vợ chồng còn có ý kiến khác nhau, nên với thành phố 2,1 triệu dân thì quan điểm trái chiều là bình thường". Tuy nhiên, điều quan trọng là việc tặng quà "được sự đồng thuận của đông đảo các tầng lớp nhân dân", thành phố sẽ không vì một vài ý kiến cá nhân làm ảnh hưởng đến công việc chung.

 "Để đi đến quyết định trên, thành phố đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng, lắng nghe các ý kiến từ cơ sở", ông Bình khẳng định và nói thêm, thời gian qua Hải Phòng đã có nhiều quyết sách đầu tư cơ sở hạ tầng với số vốn hàng chục nghìn tỷ đồng. 

Thành phố cũng tích cực hỗ trợ các xã ngoại thành làm đường nông thôn; hỗ trợ các gia đình chính sách, hộ nghèo xây dựng, sửa sang nhà cửa; miễn giảm tiền cầu phà cho nhân dân huyện đảo Cát Hải... Hải Phòng còn là địa phương đi đầu trong cả nước miễn học phí cho toàn bộ học sinh các cấp bậc học. (Vnexpress.net 03/03, Giang Chinh)Về đầu trang

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

Bộ NN&PTNT sẽ tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính

Đó là khẳng định của Thứ trưởng thường trực Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn tại Hội nghị triển khai các nhiệm vụ cải cách hành chính (CCHC) trọng tâm năm 2020 của Bộ NN&PTNT.   

 Theo báo cáo của Vụ Tổ chức cán bộ, công tác CCHC của Bộ NN&PTNT năm 2019 tiếp tục được triển khai đồng bộ trên 6 nội dung, trong đó trọng tâm xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử gắn với CCHC, triển khai văn bản điện tử, dịch vụ công trực tuyến, cơ chế một cửa quốc gia…, từng bước tạo sự chuyển biến trong chỉ đạo, điều hành của Bộ theo hướng tích cực.

 Theo Quyết định số 579/QĐ-BNN-TCCB về việc Phê duyệt và công bố chỉ số CCHC năm 2019 của các đơn vị thuộc được Bộ NN&PTNT công bố tại Hội nghị, tốp 5 đơn vị đạt số điểm cao nhất về chỉ số CCHC bao gồm: Vụ Pháp chế xếp vị trí đầu tiên với số điểm 48,3/53, đạt tỷ lệ 91,13%. Tổng cục Lâm nghiệp đứng vị trí thứ 2 với với 72,8/80 điểm, đạt 91%. Vụ Kế hoạch đứng vị trí thứ 3 đạt 48,2/53 điểm, hoàn thành 90,94%. Đứng vị trí thứ 4 là Cục Bảo vệ thực vật với 72,7/80 điểm, đạt tỷ lệ 90,88%. Tổng cục Phòng chống thiên tai đứng thứ 5 với 70,8/78 điểm, đạt tỷ lệ 90,77%.

 Về kết quả chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến năm 2019 của Bộ NN&PTNT, khảo sát cho thấy có 88,18% số người được khảo sát đánh giá là hài lòng.

 Xếp hạng chỉ số hài lòng theo lĩnh vực đánh giá, kết quả khảo sát cho thấy lĩnh vực Trồng trọt được sự đánh giá hài lòng của người dân, doanh nghiệp cao nhất trong số 7 đơn vị cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tiếp đó đến lĩnh vực Chăn nuôi và lĩnh vực Thú y. 

Báo cáo cũng xếp hạng chỉ số hài lòng theo 22 tiêu chí đánh giá, theo đó “Địa chỉ cung cấp dịch vụ công trực tuyến được công bố rõ ràng” là tiêu chí có chỉ số hài lòng cao nhất (84,19%). Trong khi đó, “Thực hiện góp ý, phản ánh, kiến nghị dễ dàng” có chỉ số hài lòng thấp nhất (56,57%). (Phapluatxahoi.vn 2/3, Khánh Phong) Về đầu trang

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH

Giải ngân vốn đầu tư công tăng 28,7% so với cùng kỳ

Theo Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn Ngân sách Nhà nước tháng 2/2020 ước tính đạt 18.100 tỷ đồng, tăng 28,7% so với cùng kỳ năm 2019.

 Trong đó, vốn Trung ương 2.500 tỷ đồng, tăng hơn 37%. Vốn địa phương 15.600 tỷ đồng, tăng hơn 27%. Tính chung 2 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn Ngân sách Nhà nước đạt 36.900 tỷ đồng, bằng 8,3% kế hoạch năm và tăng hơn 17% so với cùng kỳ năm trước.

 Theo Tổng cục Thống kê, tháng 2 là tháng sau Tết Nguyên đán và chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên một số nhà thầu chậm triển khai thi công. Cùng với đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 2 tháng ước tính giảm 5% so với cùng kỳ năm 2019, lần giảm đầu tiên trong giai đoạn 2016-2020. (VTV.vn 03/03)Về đầu trang

Ngân sách “bay” 150 tỷ đồng thuế xuất nhập khẩu mỗi ngày vì dịch Covid -19

Ước tính, thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất nhập khẩu đang bị giảm 150 tỷ đồng/ngày so với cùng kỳ năm ngoài.

 Theo thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, số thu ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu tháng 2 ước đạt 23.700 tỷ đồng, thấp hơn 2.300 tỷ đồng so với tháng 1.

 Tính chung 2 tháng đầu năm, tổng thu từ thuế xuất nhập khẩu ước đạt 49.700 tỷ đồng, bằng gần 15% dự toán và giảm gần 8% so với cùng kỳ năm 2019.

 Nguyên nhân được Tổng cục Hải quan chỉ ra do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hầu hết kim ngạch xuất nhập khẩu của các mặt hàng đóng góp số thu lớn như xăng dầu, máy vi tính, linh kiện, máy móc, sắt thép…đều giảm so với tháng trước.

 Chẳng hạn, xuất khẩu quặng trong tháng 2 ước đạt 250.000 tấn, tăng 42,6% về lượng, nhưng giảm 9,7% về giá trị, chỉ đạt 7 triệu USD.

 Đặc biệt, nhập khẩu ôtô nguyên chiếc các loại ước đạt 6.000 chiếc trong tháng 2, tương đương 134 triệu USD, giảm gần 60% về lượng và giảm gần 58% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. (Tiền phong 02/03)Về đầu trang

THẾ GIỚI

Hàn Quốc, Iran, Italy, Nhật Bản là những điểm COVID-19 đáng lo nhất

Tình hình dịch COVID-19 bên ngoài Trung Quốc, như ở Hàn Quốc, Italy, Iran và Nhật Bản đang gây ra mối lo ngại lớn.

 Số ca nhiễm mới ở Hàn Quốc vẫn đang liên tục tăng nhanh. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hàn Quốc cho biết với 477 trường hợp nhiễm mới vừa được xác nhận, tổng số ca nhiễm của quốc gia này lên tới gần 5000 người. Nước này cũng ghi nhận số ca tử vong đã lên tới 34 người, chủ yếu là người cao tuổi và người mắc bệnh nền từ trước. Trong khi đó, Italy vẫn được cho là tâm dịch ở châu Âu, khi số ca mắc ở đây đã lên tới hơn 2.000 trường hợp.

 Đứng thứ tư trong danh sách các quốc gia có COVID-19, đến sáng 3/3, Iran xác nhận hơn 1.500 ca mắc. Hiện nhiều quốc gia đã tạm đình chỉ những chuyến bay thương mại đến Iran.

 Cũng tính đến thời điểm sáng 3/3, Nhật Bản ghi nhận có tổng cộng gần 1.000 ca nhiễm COVID-19, bao gồm cả số hành khách mắc bệnh trên tàu du lịch Diamond Princess. (VTV.vn 03/03)Về đầu trang./.

SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

Các tin khác