Tài liệu tuyên truyền Quảng Bình - Hào khí 420 năm (1604 - 2024) số 03

8:51, Thứ Ba, 7-5-2024

Xem với cỡ chữ : A- A A+

Ban Biên tập trân trọng giới thiệu Tài liệu tuyên truyền “Quảng Bình - Hào khí 420 năm (1604 - 2024)”. Tài liệu do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình biên soạn và phát hành.

(Tiếp theo)

II. BƯỚC CHÂN THỜI GIAN

1. Danh xưng Quảng Bình (năm 1604)

1.1. Quảng Bình trong thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc

Theo thư tịch cũ và truyền thuyết, đất nước thời Văn Lang - Âu Lạc có 15 bộ tộc Lạc Việt sinh sống, chủ yếu ở miền Trung du và Châu thổ sông Hồng. Nhà nước Văn Lang được thành lập trên cơ sở thống nhất các bộ lạc Lạc Việt do nhu cầu trị thuỷ, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và cùng chống ngoại xâm. Trong các bộ lạc Lạc Việt có bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả và thủ lĩnh Văn Lang đóng vai trò lịch sử đứng ra thành lập nhà nước Văn Lang. Theo sự phân chia bộ lạc dưới thời Văn Lang, Quảng Bình thuộc bộ Việt Thường (có sách chép là Việt Thường Thị) một tổ chức hành chính Nhà nước sơ khai có địa vực tương đồng với toạ độ địa lý của Bắc Trung Bộ hiện nay.

Bấy giờ, cư dân Văn Lang ở Quảng Bình đã biết kế thừa, phát huy những thành tựu văn hoá của các thời kỳ trước để bước vào thời kỳ đồng thau nhằm mục đích phục vụ phát triển trồng trọt. Những di tích khảo cổ học ở Khương Hà, Cổ Giang, Quảng Lưu, Long Đại, Thanh Trạch... đã minh chứng sự kế tiếp của các thời kỳ văn hoá khá rõ nét. Đồ đồng Đông Sơn ở Quảng Bình gồm nhiều loại như mũi tên đồng, rìu đồng, lưỡi giáo, cán dao găm, thố đồng, đồ trang sức bằng đồng và trống đồng ở nhiều di chỉ khảo cổ học khác nhau đã được phát hiện.

Dấu tích đồ đồng được phát hiện tại di chỉ Cồn Nền (Quảng Trạch) chứng tỏ kỹ thuật đúc đồng của cư dân Văn Lang ở Quảng Bình lúc này đã phát triển ở trình độ cao. Trống đồng Phù Lưu (Quảng Trạch) và một số trống đồng mới trên địa bàn Quảng Bình là loại trống đồng được đúc bằng những chiếc khuôn kín hai hay nhiều mang, một kỹ thuật đặc trưng của trống đồng Đông Sơn. Đặc biệt, khuôn đúc rìu đồng lưỡi lệch (lưới xéo) tìm thấy ở Hoá Hợp (Minh Hoá) có hai mang làm bằng đá sa thạch với kỹ thuật tinh xảo, chứng tỏ những dụng cụ, vũ khí đồ đồng Đông Sơn của Quảng Bình đã được đúc tại chỗ.

Công việc luyện kim và đúc đồng đòi hỏi phải có trình độ tổ chức và kỹ thuật cao, nhất là đối với những hiện vật phức tạp như trống đồng Phù Lưu, thố đồng Thanh Trạch. Việc tổ chức luyện kim là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải chuyên môn hoá và phân công lao động. Chính vì vậy, cùng với sự ra đời của việc luyện kim và đúc đồng đã trở thành một nghề sản xuất độc lập, tách khỏi nông nghiệp. Do nhu cầu cuộc sống và dưới tác động trực tiếp của nghề luyện kim, đúc đồng, các nghề thủ công khác như: đồ gốm, đồ gỗ, đan lát, dệt vải, đồ trang sức đều có sự phát triển so với giai đoạn trước. Ở Quảng Bình vào thời kỳ này nghề làm đồ trang sức tương đối phát triển. Nhiều loại hạt chuỗi vòng tay bằng đá quý bên cạnh vòng tay, vòng nhẫn làm bằng đồng được phát hiện ở nhiều địa điểm Văn hoá Đông Sơn ở Quảng Bình. Nhiều đồ trang sức làm bằng thuỷ tinh như các loại vòng tay, hạt chuỗi và khuyên tai có mấu được tìm thấy ở Quảng Bình.

Nhờ nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang trên đất Quảng Bình được cải thiện và phong phú. Với các loại trang sức phong phú về thể loại, chất liệu, chứng tỏ cư dân ở đây đã chú ý đến cuộc sống tinh thần, thị hiếu thẩm mỹ. Những hoa văn, hình ảnh trên bình gốm, rìu đồng, thố đồng Bàu Khê, trống đồng Phù Lưu đã phản ảnh tư duy, khả năng thẩm mỹ, trình độ hội hoạ và điêu khắc của người dân nơi đây. Đời sống tinh thần còn thể hiện trên những hình ảnh sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt chung của tập thể cộng đồng. Các phong tục tập quán như tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình được lưu giữ trong một thời gian dài, chứng tỏ cư dân ở đây cũng như nhiều nơi khác của nước Văn Lang có chung một bản sắc văn hoá truyền thống của thời đại. 

                                                                             (Còn nữa)

Các tin khác