Bản tin phục vụ lãnh đạo ngày 21-11-2019

Post date: 21/11/2019

Font size : A- A A+

Tải file tại đây

TIN QUỐC HỘI 1

1.Hơn 90% đại biểu tán thành, Quốc hội thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019  1

2.Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị sắp xếp đơn vị hành chính 8 tỉnh. 3

3. Ứng dụng Quốc hội điện tử phục vụ hoạt động Quốc hội 4

4.Cơ chế chia sẻ rủi ro đầu tư PPP: Cần có nhưng thận trọng. 4

CHÍNH SÁCH MỚI 5

5.  Tăng lương tối thiểu vùng từ 1/1/2020. 5

6.   Sửa đổi, bổ sung một số quy định về phòng, chống rửa tiền. 5

7. Ban hành quy định mới về mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng. 6

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP. 6

8. Doanh nghiệp dân doanh thừa nhận đang phải trả chi phí ngoài thuế cao nhất 6

9. Kinh tế nền tảng đang tụt hậu. 7

PHÂN TÍCH -BÌNH LUẬN.. 9

10. “Chạy đua” bằng cấp công chức: Sự lỗi thời của một văn bản pháp luật 9

QUẢN LÝ.. 11

11. Hàng loạt dự án bất động sản vào "tầm ngắm" của thanh tra Bộ Xây dựng trong 2020  11

12.TP.HCM có 156 lãnh đạo chưa đủ điều kiện chức danh. 12

13.Quảng Trị: Chưa phải công chức, cán bộ huyện miền núi Quảng Trị vẫn “leo” đến chức trưởng phòng. 13

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH.. 14

14. Mỗi ngày có hơn 16 nghìn hồ sơ giao dịch qua dịch vụ công trực tuyến kho bạc. 14

15.Giải quyết thủ tục hành chính trễ hạn ở Quảng Nam: Phải xin lỗi! 15

16.  Hậu Giang: Sớm rà soát, tinh gọn, nâng chất bộ máy hành chính. 16

THẾ GIỚI 17

17.Chính phủ Nga lập cơ quan mới để quản lý cải cách cơ cấu kinh tế. 17

18.  New Zealand siết quy định đầu tư nước ngoài 18

 TIN QUỐC HỘI

Hơn 90% đại biểu tán thành, Quốc hội thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019

Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 vừa được thông qua sáng 20/11 có nhiều nội dung đáng chú ý như giờ làm việc bình thường, giờ làm thêm, tuổi nghỉ hưu… Với 90,06% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 với nhiều nội dung liên quan mật thiết đến người lao động.

 Có lộ trình điều chỉnh giảm giờ làm việc bình thường: Về thời giờ làm việc bình thường (Điều 105) quy định: Thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần nhưng phải thông báo cho người lao động biết; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần.

 Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động. Người sử dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm giới hạn thời gian làm việc tiếp xúc với yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại đúng theo các quy chuẩn kỹ thuật có liên quan.

 Không tăng giờ làm thêm: Về làm thêm giờ (Điều 107): Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động.

 Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây: Phải được sự đồng ý của người lao động; Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 40 giờ trong 1 tháng; Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.

 Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước; Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời; Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn, do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước do hậu quả thời tiết, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất.

 Trường hợp khác do Chính phủ quy định.

 Tăng tuổi nghỉ hưu: Về tuổi nghỉ hưu (Điều 169): Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ.

 Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại khoản 2 Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

 Tăng thêm 1 ngày nghỉ lễ: Về nghỉ lễ, tết (Điều 112), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo xin ý kiến, kết quả có 402 đại biểu Quốc hội cho ý kiến về nội dung này và có 370 đại biểu Quốc hội đồng ý bổ sung một (01) ngày người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương.

 Về nghỉ lễ, tết (Điều 112), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo xin ý kiến, kết quả có 402 đại biểu Quốc hội cho ý kiến về nội dung này và có 370 đại biểu Quốc hội đồng ý bổ sung một (01) ngày người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương.

 Sau nội dung này, trong ngày 20/11, các đại biểu thảo luận tại hội trường về dự án Luật Đầu tư (sửa đổi). Theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội trình bày tại Phiên họp thứ 38 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) trình xin ý kiến dự kiến sửa đổi 36 điều, bổ sung 04 điều, bãi bỏ 2 điều của Luật Đầu tư năm 2014.

 Những nội dung chủ yếu sửa đổi gồm: phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư, các luật có liên quan và điều ước quốc tế; chính sách về đầu tư kinh doanh; ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh; ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; sửa đổi, bổ sung ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài; ưu đãi và hỗ trợ đầu tư; đầu tư theo hình thức thành lập tổ chức kinh tế; góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp; thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư; thủ tục cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; triển khai thực hiện dự án đầu tư; ngành, nghề cấm đầu tư ra nước ngoài...

 Trong phiên họp tổ cho ý kiến về dự thảo Luật, có ý kiến đại biểu đề nghị cần quy định đầy đủ, chặt chẽ về hành lang pháp lý cho loại hình dịch vụ kinh doanh đòi nợ thuê; quy định cụ thể, rõ ràng về tiêu chí phân địa bàn được và không được tiếp cận với nhà đầu tư nước ngoài; cân nhắc các ưu đãi đầu tư với doanh nghiệp nước ngoài về đất đai bảo đảm với lợi ích của Nhà nước; tiêu chí chuyển nhượng dự án…

 Chiều cùng ngày, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Việc sửa đổi Luật Doanh nghiệp nhằm thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật. Dự thảo Luật trình xin ý kiến Quốc hội dự kiến sửa đổi 66 điều, bổ sung 01 chương (Chương VIIa về hộ kinh doanh) và 08 điều, bãi bỏ 01 điều so với Luật Doanh nghiệp năm 2014.

 Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tại Phiên họp thứ 38 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các nội dung cụ thể sửa đổi, bổ sung trình xin ý kiến bao gồm: phạm vi điều chỉnh; doanh nghiệp nhà nước; quyền của cổ đông; cổ phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ và chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết; phát hành trái phiếu; Hộ kinh doanh và một số nội dung cụ thể khác. (VTV.vn 20/11)Về đầu trang

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị sắp xếp đơn vị hành chính 8 tỉnh

Tại Phiên họp thứ 39, tổ chức vào chiều ngày 21/11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét và biểu quyết thông qua việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của 8 tỉnh.

 Theo dự kiến, chương trình Phiên họp thứ 39 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân quyết định tổ chức vào lúc 17h00 ngày 21/11, ngay sau khi kết thúc phiên thảo luận tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khoá XIV ở Hội trường Diên Hồng, Toà nhà Quốc hội.

 Tại Phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, quyết định việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của 8 tỉnh gồm: Bắc Giang, Thái Nguyên, Điện Biên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Phú Yên và Bình Thuận.

 Cũng tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân trình bày tờ trình; nghe Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nguyễn Khắc Định trình bày báo cáo thẩm tra.

 Sau thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua. (Baochinhphu.vn 20/11)Về đầu trang

Ứng dụng Quốc hội điện tử phục vụ hoạt động Quốc hội

Trong chiều 19/11, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã nghe giới thiệu về mô hình trung tâm điều hành Quốc hội điện tử, phục vụ việc xây dựng Quốc hội điện tử.

 Lãnh đạo Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có thể tra cứu thông tin về các dự án Luật, các Nghị quyết, các kiến nghị và việc giải quyết kiến nghị của cử tri. 

 Ứng dụng Quốc hội điện tử sẽ bao gồm hệ thống hỗ trợ lập pháp, hỗ trợ giám sát thông qua kết nối với dữ liệu của Chính phủ, các bộ ngành, hỗ trợ việc giám sát hoạt động kinh tế xã hội, nhân sự, ngân sách Nhà nước, tự động phân tích các số liệu và đề xuất các giải pháp để qua đó, Quốc hội, đại biểu Quốc hội tham khảo dữ liệu cho công việc. Ứng dụng cũng được đảm bảo về tính bảo mật với hệ thống máy chủ, điện toán đám mây được chuyển giao và vận hành bởi nhân sự của Quốc hội. (VTV.vn 20/11)Về đầu trang

Cơ chế chia sẻ rủi ro đầu tư PPP: Cần có nhưng thận trọng

Ngày 19/11 lần đầu tiên dự án Luật PPP được đưa ra thảo luận tại hội trường Quốc hội, với sự tiếp thu giải trình của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.

 Trong dự thảo có quy định, Chính phủ cam kết hỗ trợ tối đa 50% phần hụt thu, còn trong trường hợp tăng thu, nhà đầu tư cũng phải cam kết chia sẻ lại tối thiểu 50% cho Chính phủ. Một số ý kiến cho rằng, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, quy định này tiềm ẩn thêm rủi ro cho ngân sách.

 Có ý kiến cho rằng, cần quy định rõ 3 loại rủi ro trong Luật PPP. Với rủi ro chính sách và rủi ro thị trường, Chính phủ cần chia sẻ với nhà đầu tư. Tuy nhiên, với rủi ro vận hành mà do năng lực nhà đầu tư không đáp ứng được thì rủi ro này chủ yếu nhà đầu tư sẽ phải chịu.

 Tiếp thu và giải trình nội dung này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, đây là Chính phủ chia sẻ rủi ro, chứ không phải Chính phủ bảo lãnh.

 Nhiều ý kiến đánh giá cao, Luật PPP lần đầu tiên được đưa ra lấy ý kiến thể hiện một bước tiến mới, tuy nhiên, các quy định cần phải rà soát để cụ thể và thực tiễn hơn nữa. (VTV.vn 20/11)Về đầu trang

CHÍNH SÁCH MỚI

Tăng lương tối thiểu vùng từ 1/1/2020

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 90/2019/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động. Theo đó, từ ngày 1/1/2020, lương tối thiểu vùng sẽ tăng thêm từ 150.000 đồng đến 240.000 đồng so với mức áp dụng năm 2019.

 Cụ thể, mức lương tối thiểu vùng I tăng từ 4.180.000 đồng/tháng lên 4.420.000 đồng/tháng. Vùng II tăng từ 3.710.000 đồng/tháng lên 3.920.000 đồng/tháng. Vùng III tăng từ 3.250.000 đồng/tháng lên 3.430.000 đồng/tháng. Và vùng IV tăng từ 2.920.000 đồng/tháng lên 3.070.000 đồng/tháng.

 Địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu vùng được quy định theo đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. Danh mục địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu thuộc vùng I, vùng II, vùng III và vùng IV được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.

 Nghị định nêu rõ mức lương tối thiểu vùng quy định trên là mức thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận và trả lương. Trong đó, đối với người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường, bảo đảm đủ thời giờ làm việc bình thường trong tháng và hoàn thành định mức công việc đã thỏa thuận, mức lương phải bảo đảm: Không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm công việc giản đơn nhất; cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm công việc đòi hỏi người lao động đã qua học nghề, đào tạo nghề theo quy định.

 Khi thực hiện mức lương tối thiểu vùng quy định tại Nghị định này, doanh nghiệp không được xóa bỏ hoặc cắt giảm các chế độ tiền lương khi người lao động làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, làm việc trong điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với các chức danh nghề nặng nhọc, độc hại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật lao động. Các khoản phụ cấp, bổ sung khác, trợ cấp, tiền thưởng do doanh nghiệp quy định thì thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc trong quy chế của doanh nghiệp. (Vneconomy.vn 19/11)Về đầu trang

Sửa đổi, bổ sung một số quy định về phòng, chống rửa tiền

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền.

 Theo đó, Nghị định trên bổ sung khoản 5 vào Điều 6 quy định về phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro.

 Cụ thể, căn cứ kết quả đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo được áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đơn giản đối với những khách hàng được xác định có mức rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố thấp gồm một hoặc tất cả các biện pháp sau:

 Thứ nhất, không thu thập thông tin về mục đích, bản chất mối quan hệ kinh doanh nếu có cơ sở nhận biết được mục đích và bản chất từ các loại giao dịch hoặc mối quan hệ kinh doanh đã được thực hiện, thiết lập.

 Thứ hai, xác thực nhận dạng khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi sau khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh.

 Thứ ba, giảm tần suất cập nhật nhận dạng khách hàng.

 Thứ tư, giảm mức độ theo dõi và kiểm soát giao dịch.

 Ngoài ra, đối tượng báo cáo không được áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đơn giản trong trường hợp nghi ngờ liên quan đến rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố. (Vneconomy.vn 20/11) Về đầu trang

Ban hành quy định mới về mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 86 quy định mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

 Cụ thể, mức vốn pháp định đối với các loại hình ngân hàng, tổ chức tín dụng như sau: Ngân hàng thương mại: 3.000 tỷ đồng; Ngân hàng chính sách: 5.000 tỷ đồng; Ngân hàng hợp tác xã: 3.000 tỷ đồng; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu USD; Công ty tài chính: 500 tỷ đồng.

 Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/1/2020. (VTV.vn 20/11)Về đầu trang

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP

Doanh nghiệp dân doanh thừa nhận đang phải trả chi phí ngoài thuế cao nhất

Việc áp dụng thuế điện tử đã giúp hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp và cán bộ giải quyết thủ tục hành chính nhưng khảo sát cho thấy, việc phát sinh chi phí ngoài vẫn tồn tại, tập trung ở các bộ phận kiểm tra thuế, thanh tra thuế, kê khai và kế toán thuế.

 Đây là nội dung chính mà Nhóm nghiên cứu Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã công bố thông qua Báo cáo đánh giá hài lòng của doanh nghiệp về cải cách thủ tục hành chính thuế, được khảo sát độc lập lần thứ ba sau đợt khảo sát năm 2014 và 2016. Điều này phản ánh tín hiệu cải thiện ở nhiều nhóm lĩnh vực phản ánh mức độ hài lòng người nộp thuế trong 5 năm qua.

 Báo cáo kết quả khảo sát các doanh nghiệp về sự phổ biến của chi phí ngoài quy định cho thấy 64% doanh nghiệp nói “Không”, chỉ có 9% thẳng thắn thừa nhận có phải bỏ ra chi phí ngoài quy định và 27% doanh nghiệp lựa chọn không trả lời.

 Trong các doanh nghiệp khảo sát, nếu phân loại theo khu vực kinh tế, tỷ lệ doanh nghiệp dân doanh thừa nhận đang chi trả chi phí ngoài cao nhất (9%). Chỉ 7% doanh nghiệp FDI và 2% doanh nghiệp nhà nước khi được hỏi thừa nhận đã chi các khoản chi phí ngoài. Trong trường hợp phân loại theo tuổi đời hoạt động, các doanh nghiệp hoạt động dưới 5 năm có tỷ lệ trả chi phí ngoài quy định cao nhất (xấp xỉ 10%), tỷ lệ này ở nhóm doanh nghiệp hoạt động trên 10 năm là 9,2%.

 Theo VCCI, áp dụng thuế điện tử đã giúp hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp và cán bộ giải quyết thủ tục hành chính, từ đó giảm phiền hà và các khoản chi phí không chính thức khi thực hiện thủ tục hành chính. Tuy nhiên, các khoàn chi phí ngoài vẫn tồn tại, tập trung ở các bộ phận kiểm tra thuế, thanh tra thuế, kê khai và kế toán thuế, kết quả khảo sát cho hay.

 Công tác thanh tra, kiểm tra thuế cũng là điểm cần cải thiện. VCCI cho rằng cần tránh tình trạng thanh kiểm tra trùng lặp và hiện tượng cán bộ áp dụng quy định về thuế theo hướng suy diễn bất lợi cho doanh nghiệp.

 Về vấn đề này, Tổng cục Thuế thừa nhận còn những điểm hạn chế cần điều chỉnh. Ông Phi Vân Tuấn - Cục trưởng Cục Thuế Hà Nội khẳng định, một trong các giải pháp mà cơ quan này sẽ tập trung thực hiện thời gian tới là tăng cường kỷ cương kỷ luật công chức thuế thông qua việc triển khai nhật ký thanh kiểm tra, giám sát việc xử lý kết quả sau thanh kiểm tra và xử lý hoàn thuế cho doanh nghiệp.

 Một số điểm có thể cải thiện khác khi thực hiện thủ tục hành chính thuế hiện nay là phải làm sao để đơn giản, dễ hiểu và thống nhất cách hiểu thông tin hướng dẫn về thủ tục hành chính thuế như thủ tục miễn giảm và hoàn thuế với dự án đầu tư mở rộng. Nhiều doanh nghiệp phản ánh quy trình tương đối phức tạp chưa thống nhất giữa cơ quan thuế với nhau và với các bên liên quan.

 Bên cạnh những điểm còn tồn tại trên, cuộc khảo sát lần này cũng cho thấy điểm sáng khá rõ từ cải thiện trong việc thông tin về chính sách, pháp luật và thủ tục hành chính thuế đã dễ tiếp cận hơn. Dịch vụ thuế điện tử đã trở nên phổ biến với các doanh nghiệp hiện nay. Số liệu thống kê của Cơ quan thuế cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp đăng ký kê khai thuế điện tử đến 10/2019 đã đạt 99%.

 Thống kê riêng trong nhóm doanh nghiệp mà VCCI khảo sát, 98,4% doanh nghiệp đã khai thuế điện tử, 96,8% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế điện tử và thực tế tỷ lệ đã nộp thuế điện tử cũng lên tới 92%. Bộ phận nhỏ không dùng thuế điện tử do thói quen hoặc chưa phát sinh thuế phải nộp, cũng có trường hợp doanh nghiệp nghi ngại về bảo mật.

 Khảo sát cũng cho thấy độ chính xác tương đối tốt của việc lựa chọn đơn vị thanh kiểm tra. Khi được tự đánh giá về mức độ rủi ro thuế ngành lĩnh vực của doanh nghiệp đang hoạt động, ngành có mức độ rủi ro cao cũng chính là ngành thường được cơ quan thuế kiểm tra. (Petrotimes.vn 19/11)Về đầu trang

Kinh tế nền tảng đang tụt hậu

 “Kinh tế nền tảng ở Việt Nam đang đi sau - tụt hậu rất nhiều các quốc gia trong ASEAN, chưa nói đến đi ra thế giới”, chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định như vậy tại tọa đàm: “Tình hình Kinh tế Nền tảng tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và Thảo luận” ngày 19.11.

 Kinh tế nền tảng là hoạt động kinh tế và xã hội dựa trên các hạ tầng nhất định và mặc định được hiểu là các hạ tầng kỹ thuật số. Theo đại diện Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách, trong hơn một thập kỷ qua, kinh tế nền tảng đã phát triển như vũ bão với những tên tuổi như Google, Facebook, Grab, Fintech (công nghệ tài chính), Airbnb… Kinh tế nền tảng sẽ góp phần tăng năng suất lao động.

 Tuy vậy, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế, cho rằng Việt Nam đang đi quá chậm trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đi sau rất nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN, chứ chưa nói đến thế giới. Ngay Indonesia cũng đang thay đổi vượt bậc khi áp dụng công nghệ thông tin trong tất cả lĩnh vực, đặc biệt Chính phủ của họ có sự chuyển mình mạnh mẽ. “Sự chuyển động của thế giới là vô cùng lớn, trong khi chúng ta nói rất nhiều đến 4.0 nhưng Chính phủ chuyển động bao nhiêu?”,  ông Hiếu đặt câu hỏi. Đồng thời, ông nêu một sự thay đổi vượt bậc trong lĩnh vực tài chính: khách hàng vào internet và tìm đến công ty cho vay thông qua phần mềm, họ làm thủ tục trên điện thoại di động trong vòng một vài phút đã có ngay số tiền muốn vay. Như vậy, trong tương lai ngân hàng làm vai trò trung gian có thể tồn tại được không? Ông Hiếu cho rằng, “nếu người quản lý đi chậm hơn xã hội mong muốn thì hiện tượng tiêu cực sẽ xảy ra vì họ lợi dụng lỗ hổng pháp lý để trục lợi cá nhân, đi ngược lại với quyền lợi dân tộc, xã hội và của quốc gia.

 Giới chuyên gia cho rằng, trong kinh tế nền tảng, Việt Nam đang phải giải quyết những vấn đề về pháp lý, an toàn an ninh mạng, sự thiếu hụt nguồn nhân lực ICT có chất lượng, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển Chính phủ điện tử. Ngoài ra, Việt Nam đang gặp thách thức về việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu chung của quốc gia. Đây là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết, bởi việc có được nguồn dữ liệu đầu vào tốt là nền tảng căn bản để tạo lợi thế cho các doanh nghiệp công nghệ trong nước, từ đó giúp họ tìm ra lời giải cho bài toán Việt Nam và cạnh tranh sòng phẳng với các dịch vụ công nghệ xuyên biên giới. “Mỗi căn cước công dân là cơ sở để có dữ liệu quốc gia và quản lý đất nước. Hiện nay, Việt Nam cũng đã tiến dần đến tập trung hóa phát hành căn cước, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được dữ liệu quốc gia này thì không thể nói đến vấn đề lớn khác như quản lý giao thông, lũ lụt, an sinh xã hội, học đường, an ninh…”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nói.

 Hiện nay, một số bộ ngành đang sở hữu nhiều hệ thống dữ liệu khác nhau như đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp nước ngoài, đấu thầu… Tuy nhiên các hệ thống dữ liệu này chưa kết nối, liên thông với nhau mà chỉ chia sẻ một phần thông tin liên quan. GS. Hồ Tú Bảo, Viện Nghiên cứu cao cấp về toán cho rằng, cần hướng tới tích hợp các cơ sở dữ liệu quốc gia. Việc xây dựng và sử dụng dữ liệu mở sẽ là chìa khóa cho nhiều vấn đề của khu vực kinh tế tư nhân. Dữ liệu mở tức là bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận và sử dụng, nhưng cần ghi nhận nguồn. Phải khẳng định dữ liệu là tài sản do đó phải có người chủ sở hữu, từ đó hình thành vấn đề quan trọng là việc trao quyền sử dụng từ người sở hữu cho người sử dụng. Ngoài ra, còn có rào cản lớn về mặt pháp lý cần được giải quyết. Muốn giải quyết vấn đề này thì những người làm chính sách phải bỏ ngay tư duy “quản được thì mở, không quản được thì đóng”.

 Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc DTT Group Nguyễn Thế Trung cho biết, Chính phủ đang xây dựng hai nghị định: Nghị định về định danh xác thực và Nghị định về chia sẻ dữ liệu. Hiện nay chúng ta chưa định danh được người vào giao dịch số trong môi trường điện tử là ai, như thế nào. Điều này dẫn tới hiện tượng hồ sơ giả về cá nhân trong không gian số. Vì thế, Nghị định về định danh xác thực nhằm bảo đảm khi người vào giao dịch phải xác thực cụ thể, đồng thời, tạo ra cơ sở pháp lý để quản lý được ở mức độ nhất định nhưng không lộ thông tin của cá nhân quá lớn. Trong khi đó, Đối với Nghị định về chia sẻ dữ liệu mang tính chất đột phá vì yêu cầu phải chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan với nhau và tìm cơ chế để chia sẻ dữ liệu ra bên ngoài trên cơ sở người dùng đồng ý. (Đại biểu nhân dân 20/11)Về đầu trang

PHÂN TÍCH -BÌNH LUẬN

“Chạy đua” bằng cấp công chức: Sự lỗi thời của một văn bản pháp luật

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân mới đây thừa nhận: Việc tuyển, nâng ngạch cán bộ viên chức cần quá nhiều chứng chỉ là không phù hợp.

 Tâm lý chuộng bằng cấp, lấy bằng cấp làm thước đo, là tiêu chí quan trọng hàng đầu để tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đang là tình trạng cố hữu lâu nay trong nền công vụ.

 Trong khi hầu hết các nhà tuyển dụng ở khu vực tư không coi bằng cấp như một điều kiện tiên quyết thì tại khu vực công, người có bằng cấp cao lại được hưởng những chính sách ưu tiên, đặc cách trong quá trình tuyển dụng, bổ nhiệm. Câu chuyện “trọng” bằng cấp đã phát sinh hàng loạt vấn đề nhức nhối cho xã hội. Đó là tình trạng mua bán văn bằng, chứng chỉ giả, chạy chọt trong thi cử để có tấm bằng chính quy loại khá, giỏi… Mặt khác tình trạng loạn bằng cấp, chứng chỉ trong bổ nhiệm, xét tuyển còn hành đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, gây tốn kém, ảnh hưởng đến công việc chuyên môn, vì đa phần họ phải vừa học vừa làm.

 Khi ra trường xin việc, bằng cấp là điều kiện tiên quyết hàng đầu để bộ phận tổ chức cán bộ xét hồ sơ. Bằng cấp lấn át các tiêu chí khác, được xếp ở vị trí hàng đầu trong bộ hồ sơ, có tính quyết định hơn các điều kiện khác về năng lực, phẩm chất đạo đức. Thế nên mới có chuyện cán bộ bỏ tiền ra mua bằng, sử dụng bằng giả hoặc mượn bằng của người khác, nói chung bằng nhiều cách để có được tấm bằng, đáp ứng điều kiện cần.

 Trong xét tuyển hoặc thi tuyển cán bộ, công chức, viên chức, quy định hiện hành đã đưa ra những văn bằng chứng chỉ rất cụ thể và cần thiết. Bên cơ quan Đảng, theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương, bên Nhà nước theo quy định của Bộ Nội vụ. Với ba loại bằng đại học, chứng chỉ ngoại ngữ, tin học là rất cần thiết để chuẩn hóa công tác cán bộ, công chức, viên chức. Tuy vậy, để lên lương, thăng chức, thậm chí để cho đẹp hồ sơ thì nhiều cán bộ công chức cần phải chạy đua để có thêm nhiều bằng cấp, chứng chỉ khác.

 Học chỉ để đi thi, để lấy bằng được coi là căn bệnh của ngành giáo dục, nguyên nhân là do tâm lý chuộng bằng cấp, lấy bằng cấp làm thước đo đánh giá sự thành công, cất nhắc, bố trí công việc và đề bạt bổ nhiệm. Chính tâm lý này đã tạo thành gánh nặng cho người học, phải học để đạt được bằng cấp mà không chú trọng đến phát triển năng lực, sở thích hoặc việc học đó có ích như thế nào đối với công việc mà họ đang làm.

 Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vậy nên các chuyên gia cho rằng, để thu hút được người tài tham gia vào bộ máy, tham gia vào đội ngũ công chức, viên chức thì phải giảm tối đa các loại văn bằng, chứng chỉ không cần thiết.

 Lâu nay, chúng ta vẫn lo ngại về con số 30 – 40% cán bộ không làm được việc. Trong số những con người này, chắc chắn nhiều người chỉ có bằng cấp mà không có năng lực, thậm chí sử dụng bằng cấp giả để hợp thức hóa hồ sơ và yên chí khi đã có một chỗ trong cơ quan nhà nước. Thậm chí họ còn sử dụng bằng cấp đó để thăng quan tiến chức.

 Theo PGS.TS Ngô Thành Can, Học viện Hành chính Quốc gia, rõ ràng cách thức tuyển dụng và đề bạt cán bộ của chúng ta đang có vấn đề và cần phải xem xét: “Xem xét năng lực thực sự của cán bộ, cái tài cái đức có phù hợp với vị trí hay không. Đó là những mảng mà chúng ta lưu ý để sử dụng cán bộ”.

 Để đẩy lùi tình trạng trọng bằng cấp và loạn bằng cấp như hiện nay, ông Thang Văn Phúc, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ cho rằng, việc đánh giá, sử dụng cán bộ cần dựa vào thực lực chứ không nên chạy theo hư danh, lấy chuyện bằng cấp để sắp xếp các vị trí đưa vào nguồn.

 “Đánh giá theo kết quả đầu ra, xem xét việc hoàn thành công việc và kết quả chứ không phải bằng cấp mà cần thực tài. Việc quản trị của mình không tốt, kiểm soát không tốt dẫn tới nhiều lỗ hổng mà người ta lợi dụng”- ông Thang Văn Phúc nêu quan điểm.

 Với vai trò là một trong những giải pháp thu hút nhân tài, thi tuyển công chức, viên chức, lãnh đạo có ý nghĩa quan trọng trong việc loại bỏ được một số hiện tượng tiêu cực, cố hữu trong công tác cán bộ như bè phái cục bộ, chạy chức, chạy quyền, làm lành mạnh và năng động hóa nền công vụ.

 Luật sư Nguyễn Thế Truyền, Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội cho rằng, đây là cơ hội cho những người đủ điều kiện, có năng lực, có phẩm chất đạo đức tham gia vào các vị trí lãnh đạo quan trọng.

 “Đây là một trong những động thái giúp cho công tác cán bộ của chúng ta có sự thay đổi về mặt kiến thức và năng lực. Tuy nhiên, tôi cũng còn băn khoăn về việc thi tuyển đấy có thực sự là công khai, minh bạch hay không, quy trình để đảm bảo việc công khai, minh bạch và cơ chế để giám sát nó cụ thể như thế nào thì có lẽ còn rất nhiều điều phải bàn”- luật sư Truyền nhấn mạnh.

 Ở xã hội phát triển, người dân đi học để lấy kiến thức, để sống và làm việc tốt hơn chứ không phải thuần túy học để lấy bằng cấp. Tình trạng học chỉ để đi thi, để lấy bằng như hiện nay đang bóp méo mục tiêu học tập của học sinh và cả những người đã đi làm, dẫn đến hệ thống giáo dục ngày càng trục trặc vì bệnh bằng cấp, thi cử càng nặng nề. Các chuyên gia cho rằng, chỉ khi xã hội coi trọng năng lực thực chất của mỗi cá nhân, tuyển dụng công bằng, đánh giá khách quan thì khi ấy, mỗi người sẽ dễ dàng xác định được mục tiêu học tập của mình.

 Trên nghị trường Quốc hội, mới đây, Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính thức thừa nhận việc tuyển, nâng ngạch cán bộ viên chức cần quá nhiều chứng chỉ là không phù hợp, là do quy định đã tồn tại cách đây hơn 20 năm mà chưa kịp sửa. Tới đây, Bộ Nội vụ sẽ bắt tay sửa ngay quy định này để không phát sinh thêm thủ tục phiền hà gì nữa. Chất lượng công chức, viên chức sẽ được kiểm tra trực tiếp, không phải mang đến rất nhiều chứng chỉ mà trình độ lại không được nâng cao. (Vov.vn 20/11, PV) Về đầu trang

QUẢN LÝ

Hàng loạt dự án bất động sản vào "tầm ngắm" của thanh tra Bộ Xây dựng trong 2020

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà vừa ký ban hành Kế hoạch thanh tra năm 2020 của Bộ Xây dựng, trong đó tập trung vào một số vấn đề nổi cộm của lĩnh vực bất động sản đang được dư luận quan tâm như quản lý, sử dụng phí bảo trì; quy hoạch các khu đô thị, tuyến đường BT; quản lý sử dụng phí bảo trì chung cư…

 Theo đó, trong năm 2020, Thanh tra Bộ Xây dựng sẽ thanh tra công tác quy hoạch xây dựng, điều chỉnh quy hoạch xây dựng, quản lý xây dựng tại nhiều khu vực. Trong đó, tại Tp.HCM sẽ thanh tra khu vực hai bên tuyến đường Nguyễn Đức Cảnh, trong khi tại Hà Nội là tuyến đường Lê Văn Lương, Tố Hữu, khu đô thị Trung Hòa – Nhân Chính.

 Thanh tra Xây dựng cũng sẽ tiến hành thanh tra tại các tỉnh Hòa Bình, Ninh Thuận, Tây Ninh với công tác quản lý nhà nước ngành xây dựng và một số đồ án quy hoạch, thực hiện quản lý theo quy hoạch và một số dự án có tổng mức đầu tư trên 100 tỷ đồng…

 Về nội dụng phí bảo trì chung cư, trong năm tới, Bộ Xây dựng sẽ tiến hành thanh tra công tác quản lý sử dụng kinh phí bảo trì nhà chung cư tại hàng loạt dự án tại Hà Nội, TP.HCM trong đó có nhiều dự án của các "ông lớn" bất động sản. 

Trong danh sách này có: Công ty Văn Phú Invest với dự án tổ hợp thương mại, dịch vụ, căn hộ cao cấp và nhà ở thấp tầng tại khu đô thị An Hưng, phường La Kê và Dương Nội, Hà Đông, Chung cư Vitoria Hà Đông quận Hà Đông; Công ty Cổ phần Thương mại Xây dựng Vietracimex với dự án Hinode City tại phố Minh Khai, quận Hai Bà Trưng; Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông với loạt dự án Intracom Trung Văn, Intracom Cầu Diễn, Intracom Riverside tại Vĩnh Ngọc, Đông Anh.

 Cùng với đó là Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Hoàng Thành với các dự án chung cư tại khu đô thị Mỗ Lao (Hà Đông); Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị và khu công nghiệp sông Đà 7 với dự án 90 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân; dự án CT2AB và CT2C Xuân Phương thuộc khu đô thị mới Xuân Phương, Nam Từ Liêm;

 Tại Tp.HCM với hàng loạt các tòa chung cư như: Khang Gia Tân Hương (quận Tân Phú); Hoàng Anh River View (Công ty Hoàng Anh Gia Lai); Chung cư Khánh Hội 2 (Công ty Cổ phần Đầu tư dịch vụ Khánh Hội); chung cư Morning Start (Công ty Cổ phần Dịch vụ Xây dựng Địa ốc Xanh);  chung cư Investco- Babylon (Công ty Cổ phần Xây dựng và phát triển Hồng Hà)…

 Theo Bộ Xây dựng, thời gian gần đây, liên tiếp xảy ra tình trạng cư dân phản ánh việc liên quan đến phí bảo trì căn hộ. Có nơi chủ đầu tư thiếu minh bạch, cố tình chiếm đoạt quỹ bảo trì chung cư 2%; một số đối tượng dùng thủ đoạn tham gia vào ban quản trị để chiếm đoạt kinh phí bảo trì 2%. Trong khi số tiền quỹ bảo trì là không hề nhỏ, có chung cư có quỹ bảo trì đến 50-60 tỷ đồng.

 Bên cạnh đó, có nơi bàn giao phí bảo trì cho Ban quản trị nhưng lại bị chính ban quản trị một số tòa nhà sử dụng không đúng mục đích hoặc tư lợi cá nhân số tiền này khiến cư dân bức xúc. Trong khi đó, hiện quy chế và chế tài xử lý liên quan đến phí bảo trì vẫn còn thiếu và yếu.

 Bộ Xây dựng cho biết, trên địa bàn Hà Nội hiện vẫn còn số lượng rất lớn chung cư (254/492 chung cư thương mại, chiếm 52%; 33/82 chung cư tái định cư, chiếm 40%) chưa bàn giao kinh phí bảo trì phần sở hữu chung cho Ban quản trị, trong đó phát sinh 39 trường hợp chung cư thương mại có tranh chấp về kinh phí bảo trì này. (VTC.vn 20/11, Nguyên Hà)Về đầu trang

TP.HCM có 156 lãnh đạo chưa đủ điều kiện chức danh

Thanh tra Bộ Nội vụ TP.HCM vừa chỉ ra những hạn chế trong việc tuyển dụng công chức, sắp xếp cán bộ trong giai đoạn 2016-2018 và yêu cầu thành phố kiểm điểm, xử lý các tổ chức, cá nhân để xảy ra tồn tại.

 Theo cơ quan này, TP.HCM có 156 công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý còn thiếu một hoặc một số điều kiện, tiêu chuẩn chức danh. Ngoài ra, thời điểm làm quy trình, ban hành quyết định bổ nhiệm lại và kéo dài thời gian giữ chức vụ đối với 77 công chức còn chậm hoặc sớm so với quy định.

 Trong 346 trường hợp đặc biệt được tuyển dụng công chức, thanh tra sở phát hiện 13 công chức chưa có chứng chỉ quản lý Nhà nước tương ứng với ngạch công chức.

 Đối với 104 trường hợp xét chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức từ cấp huyện trở lên, TP.HCM có 11 trường hợp chưa có quyết định tuyển dụng công chức cấp xã, 3 người giữ chức vụ Phó chủ tịch UBND phường chuyển lên cấp huyện chưa đủ 60 tháng công tác, 7 trường hợp quyết định tuyển dụng công chức cấp xã hoặc quyết định công nhận chức danh công chức cấp xã không căn cứ vào kết quả tuyển dụng.

 Ngoài ra, TP.HCM còn 5 phòng, ban chuyên môn có số lượng cấp phó vượt quá quy định. Bên cạnh đó, 8 cơ quan, tổ chức thuộc UBND thành phố còn sử dụng 15 hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong cơ quan, tổ chức hành chính Nhà nước.

 Thanh tra Bộ Nội vụ nêu rõ tại kỳ thi tuyển dụng năm 2016, UBND TP.HCM đã ban hành kế hoạch tuyển dụng sau thời điểm có thông báo tuyển dụng công chức. Ngoài ra, đáp án thi không được Chủ tịch Hội đồng thi phê duyệt và đáp án thi của một số câu môn kiến thức chung không có thang điểm chi tiết.

 Thanh tra Bộ Nội vụ đã yêu cầu Chủ tịch UBND TP.HCM thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tuyển dụng công chức. Đối với các công chức không đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn của bộ chuyên ngành, TP.HCM cần rà soát và xử lý theo đúng thẩm quyền.

 Đối với vị trí lãnh đạo, quản lý từ tháng 6/2012 đến nay, TP.HCM buộc phải miễn nhiệm, không bổ nhiệm lại, thu hồi quyết định khi phát hiện các trường hợp không đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn, vi phạm về trình tự, thủ tục không khắc phục được. 

Chánh thanh tra Bộ Nội vụ cũng đề nghị UBND TP.HCM chấm dứt việc sử dụng 15 hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn trong cơ quan, tổ chức hành chính. (VTC.vn 20/11) Về đầu trang

Quảng Trị: Chưa phải công chức, cán bộ huyện miền núi Quảng Trị vẫn “leo” đến chức trưởng phòng

Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị mới đây có công văn gửi UBND huyện Hướng Hóa ý kiến về trường hợp bổ nhiệm chức vụ với ông Xôm Vân - Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện này.

 Dư luận ở huyện Hướng Hóa suốt thời gian dài xôn xao về việc thời điểm được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng, ông Xôm Vân là nhân viên hợp đồng, chưa có quyết định tuyển dụng công chức.

 Theo tìm hiểu, Luật Cán bộ Công chức năm 2008 quy định, nếu là công chức thì phải có quyết định tuyển dụng. Tuy nhiên, trường hợp ông Xôm Vân, dù đang đảm nhận chức vụ Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Hướng Hóa, nhưng đến thời điểm hiện tại ông này vẫn không có quyết định tuyển dụng công chức.

 Ngay sau khi dư luận lùm xùm, UBND huyện Hướng Hóa khẩn trương rà soát và xác định, ông Xôm Vân sau khi tốt nghiệp hệ đại học cử tuyển ngành xây dựng tại Đại học Giao thông vận tải được nhận vào làm nhân viên hợp đồng tại Phòng Kinh tế thuộc UBND huyện Hướng Hóa, quá trình làm việc từ tháng 10/2003 – 3/2004.

 Ngày 11/3/2004, Huyện ủy Hướng Hóa có kết luận của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc luân chuyển 9 cán bộ cấp huyện tăng cường cơ sở để bầu giữ chức Phó Chủ tịch UBND xã, trong danh sách đó có tên ông Xôm Vân. 

Thời điểm trên, ông Xôm Vân dù chỉ là nhân viên hợp đồng tại Phòng Kinh tế được vài tháng nhưng được điều vào UBND xã Hướng Việt và được HĐND xã này bầu giữ chức Phó Chủ tịch UBND xã nhiệm kỳ 2004-2009. 

Đảm nhiệm chức Phó Chủ tịch UBND xã Hướng Việt được 4 năm, đến 12/6/2008, ông Nguyễn Quân Chính, Chủ tịch UBND huyện Hướng Hóa thời điểm đó (nay là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị) ký quyết định số 1121/QĐ - UBND, điều động và bổ nhiệm ông Xôm Vân giữ chức Phó trưởng Phòng Công thương huyện Hướng Hóa (thời gian bổ nhiệm là 5 năm, kể từ 15/6/2008). Lương của ông Xôm Vân vẫn giữ nguyên, phụ cấp chức vụ được hưởng hệ số 0,2.

 3 tháng sau đó, trên cơ sở đề nghị của UBND huyện Hướng Hóa, Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị có quyết 39/QĐ - SNV về việc điều động ông Xôm Vân đến công tác tại Phòng Công thương huyện Hướng Hóa từ  20/9/2008.

 Ông Xôm Vân giữ chức Phó phòng Công thương đến năm 2016 thì lên chức Trưởng Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Hướng Hóa cho đến nay.

 Đáng nói, thời điểm đó, dù có quyết định bổ nhiệm chức danh Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện nhưng ông Xôm Vân chưa phải là công chức.

 Trong công văn gửi Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị, UBND huyện Hướng Hóa nêu: "Quá trình sử dụng và bố trí công tác cán bộ của ông Xôm Vân, dư luận báo chí đang phản ánh về bổ nhiệm lãnh đạo khi chưa có quyết định tuyển dụng công chức. Để có cơ sở đánh giá, quy hoạch, sử dụng cán bộ, cũng như bảo vệ quyền lợi cho người dân tộc thiểu số, UBND huyện kính đề nghị Sở Nội vụ cho ý kiến chỉ đạo".

 Thông tin với báo chí, Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị cho biết, có công văn gửi UBND huyện Hướng Hóa để nêu ý kiến của Sở về quyết định tuyển dụng công chức đối với ông Xôm Vân.

 Lý giải việc ông Xôm Vân được Huyện ủy Hướng Hóa luân chuyển về cơ sở, Sở Nội vụ Quảng Trị cho biết, thực chất là địa phương này giới thiệu ông Vân về cơ sở để HĐND cấp cơ sở bầu giữ chức Phó Chủ tịch UBND xã, chứ không phải huyện điều động ông Vân về giữ chức vụ đó tại xã Hướng Việt.

 "Theo quy định của pháp luật về tổ chức HĐND và UBND thì một người dân thường nếu có đủ trình độ học vấn, sức khỏe, tuổi đời đáp ứng yêu cầu và được người dân bầu thì vẫn có thể nắm giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND xã", Trưởng phòng Công chức – Viên chức, Sở Nội vụ Quảng Trị thông tin.

 Cũng theo Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị, việc Chủ tịch UBND huyện Hướng Hóa (lúc đó là ông Nguyễn Quân Chính) thực hiện điều động và bổ nhiệm Phó Trưởng phòng Công thương đối với ông Xôm Vân khi chưa có quyết định điều động của Sở Nội vụ tỉnh là không đúng thẩm quyền quy định. (VTC.vn 20/11, Nguyễn Vương)Về đầu trang

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

Mỗi ngày có hơn 16 nghìn hồ sơ giao dịch qua dịch vụ công trực tuyến kho bạc

Theo thống kê mới nhất của Kho bạc Nhà nước, tổng số đơn vị đã tham gia dịch vụ công trực tuyến là 48.267 đơn vị.   

 Cũng đến thời điểm hiện tại, tổng số tài khoản sử dụng đang hoạt động là 123.006 tài khoản. Trong đó, đã có hơn 95,5 nghìn tài khoản thực hiện giao dịch qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến với hơn 16 nghìn hồ sơ phát sinh trung bình hàng ngày. Ngày cao điểm có thể lên tới hơn 29 nghìn hồ sơ.

 Cũng theo Kho bạc Nhà nước, tổng số đơn vị đã đăng ký sử dụng dịch vụ công trực tuyến theo kế hoạch năm 2019 tính đến ngày 31/10/2019 là 21.737 đơn vị, đạt 73% (kế hoạch năm 2019 là 29.646 đơn vị). Trong đó, trong tháng 10/2019, có 3.265 đơn vị đăng ký tham gia mới và đã được Kho bạc phê duyệt sử dụng dịch vụ công trực tuyến).

 Để đẩy mạnh thực hiện triển khai thực hiện dịch vụ công trực tuyến trong toàn hệ thống Kho bạc, Kho bạc Nhà nước đã yêu câù các đơn vị trong hệ thống hàng tháng phải thực hiện công khai số liệu thống kê tình hình triển khai dịch vụ công tại Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh, Kho bạc Nhà nước quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trển Cổng thông tin nội bộ hệ thống Kho bạc Nhà nước.

 Hiện Kho bạc Nhà nước đang hoàn thiện nâng cấp hệ thống dịch vụ công nhằm khắc phục một số lỗi cũng như xây dựng các tiện ích phục vụ tra cứu trên hệ thống dịch vụ công.

 Đồng thời, các đơn vị Kho bạc cấp tỉnh vẫn tiếp tục hỗ trợ các đơn vị sử dụng ngân sách triển khai dịch vụ công trực tuyến. (Hải quan 20/11)Về đầu trang

Giải quyết thủ tục hành chính trễ hạn ở Quảng Nam: Phải xin lỗi!

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Tân cho rằng, thực hiện nghiêm túc việc xin lỗi khi hồ sơ bị giải quyết trễ hạn vừa là trách nhiệm, sự cầu thị để làm tốt hơn; đồng thời cũng là nét đẹp về ứng xử văn hóa trong các cơ quan công quyền. 

Trung tâm Hành chính công tỉnh cho biết, UBND tỉnh đã phê duyệt 662 thủ tục hành chính (TTHC) thực hiện giải quyết theo quy trình 4 bước, đạt 49% tổng số TTHC của các sở, ban ngành đưa vào giải quyết tại trung tâm. Trong đó, có 11 sở ngành đạt trên 50%; 3 sở ngành đạt trên 30%, 1 đơn vị đạt dưới 30% và 2 đơn vị không đăng ký TTHC thực hiện theo quy trình 4 bước gồm: Sở Y tế và Sở Tài chính. Trong 11 tháng đầu năm, có tổng cộng 1.052 hồ sơ trễ hạn (chiếm 1,5% hồ sơ giải quyết) của các đơn vị. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều sở, ngành chưa triển khai thực hiện xin lỗi đối với các hồ sơ trễ hạn.

 Theo phân tích của Trung tâm Hành chính công tỉnh, từ đầu năm đến ngày 15.11.2019, Sở Tài nguyên - môi trường có tổng cộng 143 hồ sơ trễ hạn, chủ yếu thuộc lĩnh vực đất đai và bảo vệ môi trường. Các hồ sơ trễ hạn, chậm trả của Sở Tài nguyên - môi trường đều không có thông báo và thư xin lỗi cho tổ chức, cá nhân; đặc biệt có trường hợp các tổ chức đề nghị trả lời nhiều lần nhưng không được giải đáp.

 Tương tự, Sở Xây dựng có tổng cộng 254 hồ sơ trễ hạn chủ yếu thuộc thủ tục cấp/cấp lại Chứng chỉ hoạt động xây dựng cho tổ chức, cá nhân và các thủ tục liên quan đến thẩm định, cấp phép, kiểm tra công tác nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng. Các hồ sơ trễ hạn của Sở Xây dựng đều không có thông báo trễ hạn và thư xin lỗi liên quan đến tổ chức, cá nhân để biết.

 Tại cuộc họp sáng 19.11, giải trình về hồ sơ trễ hạn và không thực hiện xin lỗi, đại diện lãnh đạo Sở Tài nguyên - môi trường nhận trách nhiệm về mình, đồng thời trần tình: biết hồ sơ bị trễ hạn và không thực hiện xin lỗi là vi phạm quy chế, lãnh đạo sở đã đôn đốc nhưng do khối lượng công việc rất nhiều, tính chất hồ sơ rất phức tạp, nhạy cảm, vừa mang tính pháp lý, vừa có sự phối hợp giữa các tổ chức sử dụng đất, địa phương và sở, ngành liên quan thì mới có đủ cơ sở trình hồ sơ giải quyết theo thẩm quyền. Lãnh đạo sở cũng đã chỉ đạo là nếu thấy không đủ cơ sở thì có ngay văn bản nêu lý do trả hồ sơ. Tuy nhiên, các đơn vị liên quan không có đủ nhân lực, thời gian để làm thông báo và gửi thư xin lỗi, vấn đề này phải được khắc phục trong thời gian tới.

 Theo ý kiến của nhiều sở ngành, hồ sơ bị trễ hạn có một phần do thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan với ngành cấp trên. Theo bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Giám đốc Sở Ngoại vụ, trong số 8 hồ sơ bị trễ hạn của sở có một hồ sơ do nguyên nhân chủ quan và tất cả nêu rõ lý do chậm giải quyết, xin lỗi vì trễ hạn. Dù vậy, trong phiếu hẹn trả lời kết quả giải quyết của sở không thể ghi rõ thời hạn mà phải ghi là “sau khi có kết quả xác minh của ngành công an”, rất bị động...

 Là đơn vị có hồ sơ trễ hạn nhiều nhất theo thống kê (với 425 hồ sơ), ông Đặng Văn Đào - Giám đốc Sở Tư pháp cho biết, hồ sơ trễ hạn đều thuộc thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Trước ngày 10.7.2019, sở đã giải quyết đúng và trước hạn hầu hết thủ tục nêu trên. Tuy nhiên, từ thời điểm đó đến nay, việc xác minh và trả kết quả từ Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia cho sở thường hơn 5 ngày làm việc. Do vậy, các hồ sơ lý lịch tư pháp của sở thường xuyên trễ hẹn, nhiều nhất là các hồ sơ cấp Phiếu lý lịch tư pháp hẹn trả kết quả là 7 ngày làm việc. Các hồ sơ trễ hạn, chậm trả của sở đều có thông báo và thư xin lỗi đến tổ chức, cá nhân để biết. “Sở đã thực hiện việc điều chỉnh thời gian giải quyết TTHC này theo quyết định của UBND tỉnh nên hiện nay số lượng hồ sơ cấp Phiếu lý lịch tư pháp đã giảm nhiều” - ông Đào nói.

 Phó chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Tân cho rằng, mục đích cuối cùng của cải cách TTHC là phục vụ tốt nhất, giảm thời gian, chi phí, thủ tục cho tổ chức, công dân, đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Việc giải quyết TTHC theo quy trình 4 bước trong thời gian tới phải được tổ chức thực hiện thật nghiêm, trong đó cán bộ chủ chốt sở ngành phải nêu gương để làm tốt. Nếu hồ sơ bị giải quyết trễ hạn thì cơ quan, đơn vị trực tiếp tiếp nhận giải quyết phải có thông báo và thư xin lỗi, bởi các quy định và Tỉnh ủy, UBND tỉnh đều có sự chỉ đạo cụ thể việc này.

 “Thực hiện nghiêm túc việc xin lỗi đối với hồ sơ bị trễ hẹn, vừa là nét văn hóa, cũng đồng thời thể hiện thái độ cầu thị, không đổ thừa trách nhiệm, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa đối với công tác cải cách hành chính của tỉnh. Trung tâm Hành chính công tỉnh theo dõi, mỗi tuần hai lần sẽ gửi tin nhắn thông báo hồ sơ trễ hẹn trực tiếp tới lãnh đạo đơn vị trực tiếp xử lý hồ sơ để đôn đốc, chỉ đạo giải quyết” - ông Tân nhấn mạnh. (Baoquangnam.com.vn 20/11, Nguyên Đoan) Về đầu trang

Hậu Giang: Sớm rà soát, tinh gọn, nâng chất bộ máy hành chính

Từ đây đến cuối năm, công tác cải cách tổ chức bộ máy hành chính và xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải được các cấp, các ngành thực hiện có hiệu quả.

 Theo đó, Thường trực UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành trong thực hiện quy định về cơ cấu, số lượng lãnh đạo tại các cơ quan hành chính, phải rà soát và thực hiện đúng quy định khi đề án sáp nhập các cơ quan bên trong được UBND tỉnh phê duyệt. Thực hiện cơ cấu công chức, viên chức theo vị trí việc làm, phải rà soát và chấm dứt hợp đồng làm công tác chuyên môn tại các cơ quan, đơn vị. Về tỷ lệ đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh bố trí viên chức theo đúng vị trí việc làm, phải rà soát và đề nghị các đơn vị xây dựng khung danh mục vị trí việc làm trình UBND tỉnh phê duyệt.

 Đặc biệt, phối hợp với các địa phương tích cực vận động cán bộ, công chức cấp xã tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định. Đối với các trường hợp không thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng sẽ có phương án để xem xét, bố trí sang vị trí công tác khác phù hợp. (Báo Hậu Giang 20/11, T.T)Về đầu trang

THẾ GIỚI

Chính phủ Nga lập cơ quan mới để quản lý cải cách cơ cấu kinh tế

Bộ Phát triển kinh tế Nga đã soạn thảo và chính phủ đã nhất trí với kế hoạch cải cách cơ cấu, “rất cần thiết” để nền kinh tế Nga đạt tốc độ tăng trưởng trên mức trung bình của thế giới - ít nhất là 3% kể từ năm 2021.

 Theo phóng viên TTXVN tại Moskva, các cải cách này do ủy ban của chính phủ về phát triển kinh tế thực hiện và Bộ Phát triển kinh tế đề xuất thành lập một cơ quan quản lý đặc biệt mới phục vụ công tác vận hành cải cách. 

Các đề xuất liên quan được Bộ trưởng bộ trên, ông Maxim Oreshkin nêu trong một bức thư gửi Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Bộ trưởng Tài chính Anton Siluanov, người đứng đầu Ủy ban Phát triển kinh tế, và một quan chức liên bang đã xác nhận về văn kiện này.

 Cơ quan quản lý mới, theo đề nghị của Bộ trưởng Oreshkin, sẽ là một tiểu ban đảm bảo tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy thực hiện cải cách cơ cấu. Dự kiến chính ông Oreshkin sẽ đứng đầu tiểu ban này.

 Dự kiến các chức năng chính của tiểu ban là xem xét các tài liệu về việc thực hiện cải cách cơ cấu (kể cả những bất đồng trong chính phủ), đề xuất các biện pháp cần thiết tiếp theo và ra kết luận về tình hình kinh tế.

 Bộ trưởng Oreshkin đề xuất tổ chức cuộc họp đầu tiên của ủy ban phát triển kinh tế chính phủ về các nhiệm vụ mới vào giữa tháng 12 và sau đó tổ chức hàng tháng.

 Tại cuộc họp đầu tiên, ông Oreshkin đề xuất phê chuẩn các hướng cải cách cơ cấu chính. Kế hoạch làm việc của ủy ban, được Bộ Phát triển kinh tế soạn thảo, bao gồm 6 lĩnh vực chính: cải thiện môi trường đầu tư và khuyến khích nhu cầu đầu tư; tăng tính hiệu quả của thị trường lao động; thúc đẩy sự cạnh tranh; phát triển công nghệ và đổi mới; tài chính (bao gồm phát triển tích tụ hưu trí dài hạn, phát triển thị trường thế chấp…); mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của Nga.

 Theo Bộ Phát triển kinh tế, nhiệm vụ chính của ủy ban là "điều phối chính sách nhà nước về quản lý tổng cầu." Bộ trưởng Oreshkin cho rằng tổng cầu cuối của nền kinh tế Nga hiện đang yếu. Năm nay, ước tính nền kinh tế Nga sẽ bỏ lỡ ít nhất 1.000 tỷ ruble (10,57 tỷ USD) tổng cầu.

 Nhiệm vụ quản lý tổng cầu đòi hỏi phải xem xét sự tương tác về chính sách kinh tế của chính phủ và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga. Trong các cuộc thảo luận về vai trò của ngân hàng này, Bộ trưởng Oreshkin cho rằng về cơ bản, Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga có nhiệm vụ hỗ trợ tổng cầu ở mức tương ứng với mục tiêu lạm phát 4%.

 Trong kinh tế học, tổng cầu là lượng nhu cầu có khả năng tài chính của toàn bộ nền kinh tế đối với các hàng hóa cuối cùng. Tổng cầu gồm nhu cầu trong nước và nhu cầu nước ngoài. Nhu cầu trong nước là đầu tư của xí nghiệp, tiêu dùng cá nhân, chi tiêu ròng của chính phủ (chênh lệch giữa chi tiêu chính phủ và thu từ thuế của chính phủ). Nhu cầu nước ngoài chính là xuất khẩu ròng (chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu). (TTXVN 20/11, Duy Trinh)Về đầu trang

New Zealand siết quy định đầu tư nước ngoài

Giới chức New Zealand cho biết nước này đã ban hành các quy định mới, theo đó những nhà đầu tư nước ngoài muốn mua các tài sản chiến lược của New Zealand sẽ phải chứng minh rằng việc mua tài sản đó đáp ứng lợi ích quốc gia cho nước này.

 Các quy định mới lần đầu tiên cho phép chính phủ nước này từ chối những khoản đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực nhạy cảm nếu Chính phủ xác định những khoản đầu tư đó có thể gây bất lợi cho đất nước. Các quy định mới sẽ được áp dụng thí điểm đối với những cơ sở hạ tầng trọng yếu. (Đại đoàn kết 20/11, Hoài An)Về đầu trang./.

SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

More