Bản tin phục vụ lãnh đạo ngày 02-8-2019

Post date: 02/08/2019

Font size : A- A A+

 Tải file tại đây

TIÊU ĐIỂM.. 1

1.Hoà Bình công bố 5 cán bộ có con được nâng điểm thi THPT quốc gia 2018. 1

2.Phó Chủ tịch tỉnh Hoà Bình bị kỷ luật vì liên quan gian lận thi cử. 2

CHÍNH SÁCH MỚI 4

3.Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 8/2019. 4

CHỈ THỊ MỚI 6

4.Thủ tướng yêu cầu xóa bỏ tâm lý sợ trách nhiệm.. 6

TƯ DUY MỚI - CÁCH LÀM HAY.. 7

5. Hiệu quả từ chương trình "xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo" ở Đắk Lắk. 7

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP. 8

6. PMI Việt Nam tháng 7 đạt 52,6 điểm, đứng thứ hai Đông Nam Á.. 8

7. Hoạt động của doanh nghiệp có nhiều tín hiệu tích cực. 8

PHÂN TÍCH -BÌNH LUẬN.. 9

8. “Nhờn” luật?. 9

QUẢN LÝ.. 10

9.  Bộ TN&MT nói gì về việc bổ nhiệm 98 cán bộ không đủ tiêu chuẩn. 10

10. Họp ngắn, nói ít, làm nhiều. 11

11.  Tăng lương cho cán bộ, công chức: Chất lượng công việc có tăng?. 12

12.  Đề xuất đặt tiền bảo lãnh thay vì để Cảnh sát giao thông giữ xe. 13

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH.. 14

13.Người đứng đầu phải thực hiện nghiêm các thủ tục hành chính. 14

14.Đà Nẵng đứng thứ 4 toàn quốc trong cải cách hành chính. 16

15.Hải Dương tiếp tục xây dựng kiến trúc chính quyền điện tử. 16

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH.. 17

16. Công an tỉnh Sóc Trăng nợ ngân sách hơn 5,4 tỉ đồng. 17

SAI PHẠM ĐIỂN HÌNH.. 18

17. Cần Thơ: Cựu Trưởng Phòng Nông nghiệp bị phạt 6,5 năm tù. 18

THẾ GIỚI 19

18. Nhật Bản quyết định mục tiêu tăng lương tối thiểu theo giờ trong tài khóa 2019 lên 3%   19

 TIÊU ĐIỂM

Hoà Bình công bố 5 cán bộ có con được nâng điểm thi THPT quốc gia 2018

Dù khẳng định không can thiệp để nâng điểm thi cho con, 5 vị lãnh đạo đều bị đề nghị kỷ luật vì vi phạm trách nhiệm nêu gương.

 Ngày 1/8, Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ Hoà Bình công bố 5 cán bộ, đảng viên có con được nâng điểm trong kỳ thi THPT quốc gia 2018 gồm các ông: Bùi Văn Thắng (nguyên Giám đốc Sở Giao thông vận tải), Trần Văn Tiệp (Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), ông Đỗ Hải Hồ (Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ), Nguyễn Anh Tuấn (Phó cục Trưởng Cục Thuế), Phạm Hồng Hải (Giám đốc Công ty Bảo Việt Hòa Bình).

  Trong quá trình bị thẩm tra, các cán bộ trên đều khẳng định "không tác động, can thiệp nâng điểm thi cho con". Tuy nhiên, Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Hoà Bình cho rằng, cán bộ có con được nâng điểm là vi phạm quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

 Mặt khác, thí sinh dùng điểm thi được nâng trái pháp luật để đăng ký vào các trường đại học, học viện là vi phạm quy chế tuyển sinh. Vì vậy, cán bộ có con được nâng điểm đã vi phạm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên do Ban chấp hành Trung ương ban hành.

 Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ Hoà Bình yêu cầu đảng uỷ các cấp xem xét, kỷ luật năm cán bộ, đảng viên trên; báo cáo trước 10/8.

 Ngày 31/7, Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ Hoà Bình đã đề nghị Thường vụ trình Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh xem xét, kỷ luật ông Bùi Văn Cửu (Phó chủ tịch tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo kỳ thi THPT quốc gia 2018 tại địa phương) bằng hình thức cảnh cáo vì để xảy ra sai phạm nâng điểm cho 65 thí sinh.

 Liên quan bê bối gian lận điểm thi, ông Bùi Trọng Đắc, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo thi, Chủ tịch Hội đồng thi THPT quốc gia 2018 bị đề nghị cách chức. Ông Nguyễn Đức Lương (Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo), bà Đinh Thị Hường (Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo) bị đề nghị cảnh cáo. Đại tá Nguyễn Thành (Phó giám đốc Công an tỉnh, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Kỳ thi THPT quốc gia năm 2018) bị đề nghị khiển trách.

 Tại kỳ thi THPT quốc gia 2018, Hòa Bình có hơn 8.900 thí sinh dự thi. Kết quả khiến dư luận nghi ngờ khi số điểm giỏi nhiều bất thường. Trong mùa xét tuyển đại học, Hòa Bình có nhiều thí sinh trúng tuyển vào các trường công an, quân đội - trường có điểm chuẩn cao vượt trội so với mặt bằng chung.

 Ngày 3/8/2018, Công an tỉnh Hòa Bình khởi tố vụ án Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, để điều tra sai phạm tại Hội đồng thi THPT quốc gia năm 2018 của địa phương. Đến nay, Cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an) khởi tố bị can, tạm giam 8 cán bộ, giáo viên, trong đó có ông Nguyễn Quang Vinh (Trưởng phòng Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục), bà Diệp Thị Hồng Liên (Phó trưởng phòng).

 Đến ngày 12/3/2019, Bộ Công an mới hoàn thành kết luận điều tra, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố điểm chấm thẩm định (chấm lại khi có nghi vấn) của thí sinh. Kết quả 63 người năm 2018 và một người năm 2017 có sự thay đổi, điểm chấm thẩm định giảm so với điểm công bố. Trong đó, 56 thí sinh với 140 bài thi trắc nghiệm đã bị thay đổi từ 0,2 đến 9,25 điểm mỗi môn thi. (Vnexpress.net 1/8, Viết Tuân)Về đầu trang

Phó Chủ tịch tỉnh Hoà Bình bị kỷ luật vì liên quan gian lận thi cử

 Ngày 31/7, Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ Hoà Bình xem xét kỷ luật ông Bùi Văn Cửu, Phó chủ tịch tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo kỳ thi THPT quốc gia 2018 tại địa phương.

 Theo kết luận của Uỷ ban kiểm tra tỉnh, ông Bùi Văn Cửu đã thiếu kiểm tra, đôn đốc, giám sát chặt chẽ một số khâu trong quá trình tổ chức kỳ thi, quá trình thực hiện quy chế thi, nhất là chấm thi; không kịp thời phát hiện những sơ hở có thể dẫn đến vi phạm để khắc phục, từ đó để xảy ra việc nâng điểm thi cho 65 thí sinh trong kỳ thi THPT quốc gia 2018.

  Những vi phạm của ông Bùi Văn Cửu được nhận định là gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân; làm "mất đi cơ hội của các thí sinh khác vào các trường đại học, cao đẳng chính quy". Uỷ ban đề nghị Thường vụ trình Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh xem xét, kỷ luật ông Bùi Văn Cửu bằng hình thức cảnh cáo.

 Uỷ ban kiểm tra tỉnh cũng kết luận ông Bùi Trọng Đắc, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo thi, Chủ tịch Hội đồng thi THPT quốc gia 2018 đã gây hậu quả rất nghiêm trọng.

 Ông Đắc bị xác định thiếu kiểm tra, giám sát chặt chẽ một số khâu trong quá trình tổ chức thi, quá trình thực hiện quy chế thi, nhất là khâu chấm thi; bố trí thành viên tại một số Ban của Hội đồng thi sai quy chế thi; thiếu kiểm tra, giám sát chặt chẽ cán bộ dưới quyền để một số người chấm thi cấu kết với nhau can thiệp, sửa chữa, nâng điểm thi trái pháp luật cho 65 thí sinh... Uỷ ban kiểm tra tỉnh đề nghị Ban Bí thư xem xét, cách chức ông Bùi Trọng Đắc.

 Liên quan vụ án gian lận thi cử này, Uỷ ban kiểm tra tỉnh đã cảnh cáo ông Nguyễn Đức Lương (Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo), bà Đinh Thị Hường (Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo).

 Đại tá Nguyễn Thành (Phó giám đốc Công an tỉnh, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Kỳ thi THPT quốc gia năm 2018) bị khiển trách vì chưa chấp hành đầy đủ nhiệm vụ. 21 thành viên Ban chỉ đạo thi THPT quốc gia 2018 tại Hoà Bình cũng bị yêu cầu rút kinh nghiệm, kiểm điểm.

 Tại kỳ thi THPT quốc gia 2018, Hòa Bình có hơn 8.900 thí sinh dự thi. Kết quả khiến dư luận nghi ngờ khi số điểm giỏi nhiều bất thường. Trong mùa xét tuyển đại học, Hòa Bình có nhiều thí sinh trúng tuyển vào các trường công an, quân đội - trường có điểm chuẩn cao vượt trội so với mặt bằng chung.

 Ngày 3/8/2018, Công an tỉnh Hòa Bình khởi tố vụ án Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, để điều tra sai phạm tại Hội đồng thi THPT quốc gia năm 2018 của địa phương. Đến nay, Cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an) khởi tố bị can, tạm giam 8 cán bộ, giáo viên, trong đó có ông Nguyễn Quang Vinh (Trưởng phòng Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục), bà Diệp Thị Hồng Liên (Phó trưởng phòng). 

Đến ngày 12/3/2019, Bộ Công an mới hoàn thành kết luận điều tra, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố điểm chấm thẩm định (chấm lại khi có nghi vấn) của thí sinh. Kết quả 63 người năm 2018 và một người năm 2017 có sự thay đổi, điểm chấm thẩm định giảm so với điểm công bố. Trong đó, 56 thí sinh với 140 bài thi trắc nghiệm đã bị thay đổi từ 0,2 đến 9,25 điểm mỗi môn thi.

 Ba trường công an đã trả 28 sinh viên Hòa Bình về địa phương để bàn giao cho gia đình quản lý do điểm chấm thẩm định giảm, vi phạm cam kết với nhà trường. Đại học Sư phạm Hà Nội đã xóa tên một thủ khoa năm 2018 do chỉ đạt 21,5 điểm, thấp hơn mức trúng tuyển ngành Sư phạm Ngữ văn 2,5 điểm.

 Trong số thí sinh bị trả về, có nhiều em được cho là con cháu của lãnh đạo tỉnh, các sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học và Công nghệ, Phòng Cảnh sát giao thông, Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy. (Vnexpress.net 1/8, Viết Tuân)Về đầu trang

CHÍNH SÁCH MỚI

Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 8/2019

Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; tăng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng; tăng 7,19% mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã nghỉ việc;... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 8/2019.

  Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch: Có hiệu lực từ ngày 01/08/2019, Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày 21/05/2019 của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.

 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao phạt đến 100 triệu đồng: Nghị định 46/2019/NĐ-CP ngày 27/05/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao có hiệu lực từ ngày 1/8/2019, theo đó, mức phạt tối đa trong lĩnh vực thể thao được quy định tại Nghị định này là 50 triệu đồng đối với cá nhân và 100 triệu đồng đối với tổ chức.

 Quản lý phương tiện phục vụ vui chơi dưới nước: Nghị định số 48/2019/NĐ-CP ngày 05/06/2019 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động của phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước có hiệu lực từ ngày 15/08/2019. Nghị định trên quy định vùng hoạt động vui chơi, giải trí dưới nước gồm 2 vùng: Vùng 1 là vùng nước trên tuyến đường thủy nội địa, vùng nước cảng biển hoặc khu vực hàng hải; vùng 2 là vùng nước khác không thuộc vùng 1, được đánh dấu, xác định vị trí bằng phao hoặc cờ hiệu có màu sắc dễ quan sát. Căn cứ tình hình thực tế, cơ quan có thẩm quyền sẽ quy định khoảng thời gian trong ngày được phép tổ chức hoạt động vui chơi, giải trí tại 2 vùng trên.

 Vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học – công nghệ phạt đến 100 triệu đồng: Theo Nghị định số 51/2019/NĐ-CP ban hành ngày 13/06/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ có hiệu lực từ 01/08/2019, mức phạt tiền tối đa trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ đối với cá nhân là 50 triệu đồng, đối với tổ chức là 100 triệu đồng.

 Điều kiện của người được đề nghị đặc xá: Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2019/NĐ-CP ngày 14/06/2019 quy định chi tiết một số điều của Luật Đặc xá có hiệu lực từ ngày 01/08/2019, trong đó quy định cụ thể các điều kiện của người được đề nghị đặc xá.

 Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24/06/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có hiệu lực từ ngày 16/08/2019. Nghị định này quy định chi tiết các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức khác và cá nhân có liên quan trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

 Tăng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng: Theo Nghị định 58/2019/NĐ-CP ban hành ngày 01/07/2019 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng có hiệu lực từ ngày 15/08/2019, mức chuẩn để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng theo quy định tại Nghị định 58/2019/NĐ-CP là 1.624.000 đồng (quy định cũ tại Nghị định 99/2018/NĐ-CP là 1.515.000 đồng).

 Quy định về tặng, nhận quà tặng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị: Theo Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/07/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng có hiệu lực từ 15/08/2019, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn chỉ được sử dụng tài chính công, tài sản công để làm quà tặng vì mục đích từ thiện, đối ngoại và thực hiện chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. Việc tặng quà phải thực hiện đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn, đối tượng theo quy định của pháp luật; cơ quan, đơn vị tặng quà phải hạch toán kế toán và thực hiện công khai trong cơ quan, đơn vị mình theo đúng quy định của pháp luật.

 Hệ thống tổ chức của Cảnh sát biển Việt Nam: Theo Nghị định 61/2019/NĐ-CP ban hành ngày 10/07/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam có hiệu lực từ ngày 28/08/2019. Theo đó, hệ thống tổ chức của Cảnh sát biển Việt Nam gồm: 1. Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam; 2. Các đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam: a) Các Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 1, 2, 3, 4; b) Các Đoàn Đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1, 2, 3, 4; c) Các Đoàn Trinh sát số 1, 2; d) Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ Cảnh sát biển. 3. Các cơ quan, đơn vị đầu mối và cấp cơ sở trực thuộc các đơn vị trên.

 Tăng 7,19% mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã nghỉ việc: Có hiệu lực từ ngày 01/8/2019, Thông tư 09/2019/TT-BNV hướng dẫn thực hiện điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng từ ngày 01/7/2019 đối với cán bộ xã đã nghỉ việc theo Quyết định số 130-CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 111-HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, từ ngày 01/7/2019, thực hiện điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã già yếu đã nghỉ việc theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 44/2019/NĐ-CP của Chính phủ điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng tăng thêm 7,19% mức trợ cấp hàng tháng trên mức trợ cấp được hưởng tại thời điểm tháng 6 năm 2019.

 Quy định về đăng ký xe máy chuyên dùng: Bộ Giao thông vận tải ban hành Thông tư 22/2019/TT-BGTVT quy định về đăng ký xe máy chuyên dùng có hiệu lực từ 1/8/2019.

 Thêm 3 trường hợp được thanh toán trực tiếp chi phí khám, chữa bệnh bằng thẻ BHYT: 1-  Người bệnh có thời gian tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở (trừ trường hợp tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến) nhưng chưa được thanh toán số tiền cùng chi trả lớn hơn 6 tháng lương cơ sở. 2- Trường hợp dữ liệu thẻ bảo hiểm y tế không được cung cấp hoặc cung cấp không chính xác về thông tin thẻ bảo hiểm y tế. 3- Trường hợp người bệnh không xuất trình được thẻ bảo hiểm y tế trước khi ra viện, chuyển viện trong ngày do tình trạng cấp cứu, mất ý thức hoặc tử vong hoặc bị mất thẻ nhưng chưa được cấp lại. (Báo Chính Phủ Điện Tử 1/8, Chí Kiên)Về đầu trang

CHỈ THỊ MỚI

Thủ tướng yêu cầu xóa bỏ tâm lý sợ trách nhiệm

Ngày 1/8, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chính phủ họp phiên thường kỳ bàn về tình hình kinh tế-xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2019.

 Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7 bắt đầu từ sáng 1/8, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc một mặt công bố nhiều tin vui của nền kinh tế song Thủ tướng cũng yêu cầu cán bộ ở các tỉnh, thành trọng điểm về kinh tế phải xóa bỏ tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm trong phê duyệt các dự án đầu tư ở bộ, ngành và địa phương mình.

 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị các bộ, ngành và địa phương không được chủ quan. Vì sản xuất công nghiệp tăng trưởng thấp hơn năm ngoái, còn nông nghiệp đang rất khó khăn do hạn hán, dịch tả lợn châu Phi và giá nông sản xuống thấp, nên tăng trưởng nông nghiệp 7 tháng qua chỉ đạt gần một nửa so với năm ngoái. Dù Xuất khẩu vẫn tăng nhưng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc tăng thấp, một số mặt hàng có kim ngạch lớn như điện thoại và linh kiện điện tử đang gặp khó khăn. Trong khi đó, khách du lịch, nhất là từ Trung Quốc cũng chậm lại.

 Từ tình hình này, Thủ tướng yêu cầu các doanh nghiệp và địa phương phải tận dụng được những cơ hội do các Hiệp định thương mại tự do mang lại, không tiếp tục chính sách xuất khẩu hàng hóa và nông sản sang Trung Quốc qua đường mòn, lối mở, cửa khẩu phụ mà thay vào đó phải đẩy mạnh xuất khẩu chính. Đi cùng với phải có các hành động cụ thể và có kết quả bằng con số để hướng tới cân bằng thương mại với các đối tác thương mại lớn. Thủ tướng cũng khẳng định lại thái đội kiên quyết của Chính phủ trong xử lý buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là gian lận xuất xứ hàng hóa Việt Nam, như vụ Asanzo.

 Để ứng phó hiệu quả với các thách thức từ bên ngoài và từ nội tại nền kinh tế nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước đạt 6,8% và kiểm soát Chỉ số giá tiêu dùng dưới 4%, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các thành viên Chính phủ và lãnh đạo các địa phương càng trong khó khăn thì càng phải có ý chí vượt khó, không thoái trí. Trong đó việc đầu tiên là phải đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, nhất là phải triển khai nhanh các dự án giao thông trọng điểm.

 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, việc vận động người dân và doanh nghiệp giảm sử dụng đồ nhựa một lần đang đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải xây dựng chính sách để hạn chế đồ nhựa sử dụng một lần, giảm chôn lấp rác thải, đi cùng với hành động mạnh mẽ đối với hành vi nhập lậu rác thải vào Việt Nam như các nước đã làm. Thủ tướng nhấn mạnh khi Việt Nam đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hàng đầu ở châu Á thì cũng phải đi đầu trong trong việc xử lý rác thải, nhất là chống lại việc xả rác thải nhựa ra đại dương. Thủ tướng yêu cầu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành và các đoàn thể nhất là đoàn thanh niên phải có trách nhiệm thực hiện chủ trương này, chứ không chỉ tổ chức phát động phong trào ở Hà Nội rồi bỏ đó không làm gì.

 Tại phiên họp này, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đánh giá cao Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với các địa phương đã tổ chức khá thành công kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia, mọi công việc đã nề nếp, chất lượng và chống được tiêu cực tốt hơn so với năm ngoái, nên đến giờ phút này chưa phát hiện sai phạm. Đây là điều đáng được biểu dương. (VTV.vn 1/8)Về đầu trang

TƯ DUY MỚI - CÁCH LÀM HAY

Hiệu quả từ chương trình "xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo" ở Đắk Lắk

Thực hiện công tác dân vận, thời gian qua, lực lượng vũ trang tỉnh Đắk Lắk đã lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh các hoạt động giúp dân; trong đó việc triển khai chương trình “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo" đã mang lại hiệu quả thiết thực, không chỉ giúp nhiều hộ dân thoát nghèo mà còn làm đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

 Chương trình “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo” do Quân khu 5 phát động có ý nghĩa thực tiễn trong thực hiện công tác dân vận trong tình hình mới và là cách làm sáng tạo thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Với phương châm “trao cần câu” và “bày cách câu”, hằng năm Bộ Chỉ huy quân sự (CHQS) tỉnh Đắk Lắk đã giao nhiệm vụ cho 100% đầu mối đơn vị giúp công sức, hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư vốn, phân bón, cây giống, con giống… tạo điều kiện cho các hộ dân nghèo phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo bền vững.

 Các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh đã thực hiện sáng tạo nhiều nội dung, hình thức hoạt động mới như: Thực hiện “Mỗi tổ chức, cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo”; phong trào “Hũ gạo vì người nghèo”, “Giảm một hộ nghèo”, làm công tác dân vận ở các xã đặc biệt khó khăn (theo chủ trương của Đảng ủy Quân khu), gắn với thực hiện Phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”; thực hiện Chương trình 12 quân - dân y kết hợp; có đơn vị đã thực hiện được mô hình hiệu quả về công tác dân vận như: Ban CHQS huyện Buôn Đôn nuôi đỡ đầu các cháu học sinh mồ côi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn người dân tộc thiểu số; Ban CHQS huyện Krông Năng, Ban CHQS thị xã Buôn Hồ gắn kết giữa cán bộ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp với các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số thuộc buôn kết nghĩa; mô hình trồng lúa nước của Đội công tác 376 tại xã Dliê Ya/huyện Krông Năng theo công nghệ của Viện Nông lâm Tây Nguyên; Ban CHQS huyện Cư Mgar thực hiện Phong trào “Mỗi tổ chức, cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo”…, bằng nhiều hình thức phương pháp nhằm từng bước nâng cao hiệu quả công tác dân vận.

 Với việc triển khai thực hiện mô hình dân vận “xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo” trên địa bàn đóng quân, lực lượng vũ trang tỉnh Đăk Lắk được cấp ủy, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn đánh giá cao, góp phần hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở địa phương; qua đó thắt chặt tình đoàn kết quân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thiết thực phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. (Danvan.vn 1/8, Mai Anh)Về đầu trang

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP

PMI Việt Nam tháng 7 đạt 52,6 điểm, đứng thứ hai Đông Nam Á

Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam tăng nhẹ từ 52,5 điểm của tháng 6 lên 52,6 điểm trong tháng 7. Kết quả chỉ số cho thấy các điều kiện kinh doanh tiếp tục cải thiện, và đây là lần cải thiện thứ 44 trong thời gian 44 tháng.

 Theo Nikkei, lĩnh vực sản xuất của Việt Nam tiếp tục có kết quả hoạt động khả quan vào đầu quý 3 của năm, với số lượng đơn đặt hàng mới và sản lượng tiếp tục tăng. Tuy nhiên, tốc độ tạo thêm việc làm đã chậm lại. Giá cả đầu vào cũng tăng chậm hơn trong tháng 7, với áp lực chi phí giảm bớt đã giúp giá bán hàng có thêm một tháng giảm.

 Bình luận về dữ liệu khảo sát PMI ngành sản xuất Việt Nam, Andrew Harker, Phó Giám đốc tại IHS Markit, công ty thu thập kết quả khảo sát, nói: “Dữ liệu PMI gần đây cho thấy các nhà sản xuất Việt Nam tiếp tục thành công trong tháng 7, với số lượng đơn đặt hàng mới tăng nhanh nhất trong năm tính tới thời điểm này. Kết quả này có được bất kể xuất khẩu tăng yếu nhất trong 44 tháng khi tranh chấp về thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc làm cản trở dòng chảy thương mại toàn cầu”.

 “Trên thực tế, các công ty hiện đã không thể tăng sản lượng đủ nhanh, như đã được thể hiện ở lượng công việc tồn đọng tăng tháng thứ hai liên tiếp. Nếu PMI vẫn ở quanh mức hiện tại trong những tháng còn lại của quý, ước tính dựa vào PMI cho thấy sản lượng ngành sản xuất sẽ có thể tiếp tục đạt mức tăng trưởng hai con số theo năm vào quý 3 năm 2019”, ông Harker cho biết thêm.

 Với 52,6 điểm, PMI Việt Nam đứng ở vị trí thứ hai bảng xếp hạng của ASEAN trong tháng 7, trong khi Myanmar giữ vững vị trí đầu bảng với 52,9 điểm. (Theleader.vn 1/8)Về đầu trang

Hoạt động của doanh nghiệp có nhiều tín hiệu tích cực

Trong 7 tháng năm 2019 có 79.300 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với quy mô vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp tăng mạnh, đạt 12,6 tỷ đồng, mức cao nhất trong những năm trở lại đây. Điều này dự báo sức khỏe tốt hơn của các doanh nghiệp ra nhập thị trường.

 Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2019 của Tổng cục Thống kê cho biết, tính chung 7 tháng năm nay, cả nước có 79.300 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 999,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% về số doanh nghiệp và tăng 29,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,6 tỷ đồng, tăng 23,9%. Nếu tính cả 1.476,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 7 tháng năm 2019 là 2.476,3 nghìn tỷ đồng.

 Bên cạnh đó, còn có 24.300 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 29,9% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 7 tháng lên 103.600 doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng năm nay là 743.900 người, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước.

 Theo khu vực kinh tế, trong 7 tháng năm nay có 1.100 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 1,4% tổng số doanh nghiệp thành lập mới; có 21.600 doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 27,2%; có 56.600 doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, chiếm 71,4%. Trong đó, hầu hết các lĩnh vực hoạt động có số doanh nghiệp thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước.

 Trong 7 tháng năm 2019, hầu hết các vùng kinh tế có số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước: Vùng Đồng bằng sông Hồng có 24.200 doanh nghiệp, tăng 7,2% (vốn đăng ký đạt 280,4 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 11.400 doanh nghiệp, tăng 6,8% (vốn đăng ký 108,3 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2%); Tây Nguyên 2.000 doanh nghiệp, tăng 10,3% (vốn đăng ký 24,9 nghìn tỷ đồng, tăng 107,7%); Đông Nam Bộ 33.100 doanh nghiệp, tăng 3,2% (vốn đăng ký 492,7 nghìn tỷ đồng, tăng 38,1%); Đồng bằng sông Cửu Long 5.500 doanh nghiệp, tăng 0,9% (vốn đăng ký 57,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,1%). Riêng vùng Trung du và miền núi phía bắc có số doanh nghiệp thành lập mới đạt 3.100 doanh nghiệp, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước (vốn đăng ký 35,2 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6%). (Báo Chính Phủ Điện Tử 31/7)Về đầu trang

PHÂN TÍCH -BÌNH LUẬN

“Nhờn” luật?

20 trong tổng số 37 bộ, cơ quan trung ương không công khai bất cứ thông tin nào về ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015. 17 đơn vị còn lại, dù có công khai nhưng mức độ công khai cũng không khá hơn bao nhiêu, thậm chí, có những đơn vị đã “lách” khỏi “bảng điểm danh” các đơn vị không công khai ngân sách chỉ vì có thư mục công khai ngân sách trên Cổng thông tin điện tử nhưng lại là thư mục... trống. Những con số này vẽ lên một bức tranh ngân sách mà sắc thái chủ đạo là sự “tù mù” và “đánh đố”.

 “Tù mù” là bởi khó ai biết được các bộ, cơ quan trung ương đã sử dụng ngân sách nhà nước ra sao dù Luật Ngân sách Nhà nước hiện hành đã quy định rất rõ có ít nhất 6 nội dung liên quan đến ngân sách mà các cơ quan này bắt buộc phải công khai và Bộ Tài chính cũng đã có thông tư quy định rất rõ nguyên tắc, phạm vi, thời điểm cũng như hình thức công khai thế nào.

 Còn “đánh đố” là bởi, với những đơn vị có công khai một vài nội dung ngân sách thì, theo đánh giá của Liên minh Minh bạch ngân sách và Trung tâm Phát triển và hội nhập, đến các chuyên gia đọc vào cũng không biết được cụ thể việc thu - chi, sử dụng ngân sách có đúng không vì chỉ có bảng số liệu đính kèm với dự toán thu - chi ngân sách mà không hề có nội dung thuyết minh, giải trình xem các khoản thu - chi thực tế bị “vênh” với dự toán có hợp lý, hợp pháp không? Ai chịu trách nhiệm về những khoản vênh đó? Và như vậy, người dân, cộng đồng xã hội dù muốn cũng khó mà giám sát được việc quản lý, sử dụng ngân sách của các đơn vị này như quyền mà luật pháp đã trao cho họ.

 Nhưng đó chưa phải là điều đáng lo nhất. Tình trạng thiếu công khai, minh bạch trong thông tin về việc sử dụng ngân sách tại các đơn vị ở cả Trung ương và địa phương đã diễn ra nhiều năm nay.

 Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách các năm của QH đều ghi nhận tình trạng này. Tuy nhiên, việc khắc phục cũng rất chậm chạp. Gần đây nhất, khi QH xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017 tại Kỳ họp thứ Bảy, QH Khóa XIV, các ĐBQH đã tiếp tục yêu cầu Chính phủ phải giải trình về những tồn tại “cũ” trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước. Trong đó, dù nghị quyết của QH đã yêu cầu Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương phải báo cáo về danh sách, mức độ sai phạm, hình thức xử lý, kết quả xử lý vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước năm 2016. Nhưng các nội dung báo cáo này còn hạn chế, gửi và nộp chậm; nhiều địa phương lớn không có báo cáo xử lý. Chưa kể, về hình thức, báo cáo quyết toán ngân sách trình QH công khai nhưng lại được cơ quan trình ban hành dưới dạng văn bản mật. Nhiều ĐBQH đã tỏ rõ sự không hài lòng bởi đây là chỉ dấu cho thấy sự thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước và nghị quyết của QH, cũng có nghĩa là không chấp hành nghiêm kỷ luật ngân sách nhà nước.

 Có đơn giản chỉ là các cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước ngại công khai hay phải xem đó là sự “phớt lờ” quy định của pháp luật? Một phần câu trả lời cho câu hỏi này có thể tìm thấy ngay trong số liệu được các cơ quan chức năng báo cáo QH về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017. Trong khi nhiều khoản chi quan trọng như giáo dục, khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế, lương hưu bảo đảm xã hội đều không đạt dự toán thì tình trạng chưa tuân thủ đúng các tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi vẫn diễn ra. Kiểm toán Nhà nước đã phải đề nghị xuất toán, thu hồi nộp ngân sách nhà nước 327 tỷ đồng; giảm dự toán, thanh toán đến 3.250 tỷ đồng; phát hiện 38/49 địa phương sử dụng sai nguồn kinh phí lên đến 3.104,9 tỷ đồng... Qua kiểm soát chi, Kho bạc Nhà nước cũng từ chối thanh toán 128 tỷ đồng các khoản không đúng chế độ.

 Rõ ràng, dù là ngại công khai hay là cố tính phớt lờ quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và Nghị quyết của QH thì công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước tại các đơn vị cũng đã trở nên thiếu minh bạch. Điều đáng nói hơn là, trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý, sử dụng ngân sách rất hạn chế và sự kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời của cơ quan có thẩm quyền cũng còn mờ nhạt. Nếu không chấn chỉnh vấn đề này thì hệ quả có lẽ không chỉ dừng lại ở hai chữ “nhờn luật”! (Đại Biểu Nhân Dân 1/8, Lam Anh)Về đầu trang

QUẢN LÝ

Bộ TN&MT nói gì về việc bổ nhiệm 98 cán bộ không đủ tiêu chuẩn

Bộ TN&MT vừa có thông cáo báo chí thông tin về việc Bộ Nội vụ có kết luận thanh tra chỉ rõ Bộ TN&MT bổ nhiệm 98 cán bộ, lãnh đạo không đủ tiêu chuẩn.

 Bộ TN&MT cho biết Bộ Nội vụ vừa có thông báo kết luận thanh tra về công tác tổ chức, cán bộ tại Bộ TN&MT trong giai đoạn 2016-2018. Trong số 36 trường hợp Bộ Nội vụ chỉ rõ chưa có chứng chỉ bồi dưỡng năng lực, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp phòng thì có 33 trường hợp được bổ nhiệm trước khi có quy định về chứng chỉ bồi dưỡng năng lực, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp phòng (Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 1-9-2017); tại thời điểm bổ nhiệm đã đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định.

 Sau khi Nghị định 101 có hiệu lực, Bộ TN&MT đã bổ sung yêu cầu có các chứng chỉ này vào tiêu chuẩn lãnh đạo quản lý; các trường hợp cán bộ đang giữ chức vụ quản lý đã được bổ nhiệm trước đây sẽ được bồi dưỡng để hoàn thiện.

 “Tuy nhiên, do kinh phí đào tạo bồi dưỡng hạn chế, đồng thời để đảm bảo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, trong một thời gian ngắn không thể cử hết các cán bộ lãnh đạo đi bồi dưỡng để bổ sung chứng chỉ dẫn đến còn có các trường hợp chưa có chứng chỉ tại thời điểm thanh tra. Đến nay, các cán bộ này đều đã được cử đi bồi dưỡng để hoàn thiện các chứng chỉ nêu trên” - Bộ TN&MT nêu.

 Đối với ba trường hợp vào thời điểm bổ nhiệm còn thiếu chứng chỉ bồi dưỡng (có hai trường hợp là bổ nhiệm lại) đều được thực hiện quy trình từ trước khi có quy định về tiêu chuẩn này.

 Về một trường hợp thiếu bằng cao cấp lý luận chính trị, 57 trường hợp thiếu bằng trung cấp lý luận chính trị, bốn trường hợp thiếu chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính hoặc tương đương, Bộ TN&MT cho hay đây là các trường hợp được bổ nhiệm từ năm 2017 trở về trước.

 Tại thời điểm bổ nhiệm đã đảm bảo các tiêu chuẩn về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ; có năng lực, phẩm chất đạo đức. “Tuy nhiên, do công tác tại các đơn vị ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, thường xuyên phải làm việc lưu động; mặt khác do chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng ít so với nhu cầu nên chưa có điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chính trị” - Bộ TN&MT thông tin và cho biết đến nay các trường hợp nêu trên đã được cử đi học.

 Đối với hai trường hợp tuyển dụng công chức không đúng thẩm quyền vào năm 2011, 2012, Bộ TN&MT cho hay đây là thời điểm các quy định về tuyển dụng công chức không qua thi tuyển mới được ban hành; do cách hiểu quy định chưa thống nhất đã dẫn đến việc thực hiện không đúng thẩm quyền.

 “Bộ TN&MT đã nhận thấy rõ sai sót, đồng thời đã chỉ đạo hủy bỏ một quyết định tuyển dụng đối với một trường hợp. Trường hợp còn lại đang được xem xét để xử lý theo quy định” - thông cáo nêu. (Pháp Luật TPHCM 1/8, Trọng Phú)Về đầu trang

Họp ngắn, nói ít, làm nhiều

Họp ngắn, nói ít nhưng có nhiều việc phải làm. Nhiều đại biểu ở các tỉnh xa, sau bữa ăn trưa đã lên xe về giải quyết công việc ở nhà, không phải mất thêm 1 ngày nữa, tiết giảm được một khoản chi phí không nhỏ cho việc ăn ở, xe cộ đi lại...

 Phát biểu khai mạc Hội thảo khoa học về công tác dân vận của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, thực trạng và những vấn đề đặt ra được tổ chức tại TPHCM mới đây, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương, đưa ra yêu cầu: “Tham luận của các đại biểu đã có trong tài liệu, các đồng chí nghiên cứu kỹ, khi phát biểu nên ngắn gọn, đưa ra những vấn đề từ thực tế, không diễn giải, nói dài dòng”.

 Yêu cầu trên của đồng chí Trương Thị Mai được đại biểu tham dự hội thảo đồng tình. Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương Trần Văn Nam phát biểu trước với thời lượng chưa đến 10 phút, nhưng đã nêu được một loạt vấn đề mới nảy sinh từ thực tế mà công tác dân vận của Đảng phải hướng đến, cùng với những mô hình, phương thức sinh động, gắn với thực tế.

 Chỉ 1 giờ đầu cuộc hội thảo, đã có 6 đại biểu phát biểu với hàng chục nội dung, vấn đề mới từ thực tiễn của các địa phương: Bà Rịa - Vũng Tàu, An Giang, Kiên Giang, Bình Thuận, TPHCM.

 Trong đó, đặc biệt là phát biểu của đồng chí Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TPHCM, với thời lượng là 3 phút 40 giây.

 Chỉ với thời gian như vậy, nhưng đồng chí Trần Lưu Quang đã nêu được 6 vấn đề lớn từ thực tế đặt ra cho công tác dân vận nói chung và đạo đức, phong cách lãnh đạo của người cán bộ, đảng viên nói riêng.

 Đồng chí nói: “Mỗi chúng ta hãy làm nhiều hơn một chút, mà đặc biệt là làm cho có kết quả thực tế, được nhiều người thấy và công nhận. Hãy làm nhiều và làm hay như nói”.

 Một vấn đề khác được đồng chí Trần Lưu Quang nêu ra trong phát biểu tham luận: “Tôi nghĩ, bây giờ cũng đã qua cái thời chúng ta hô khẩu hiệu, nói nhiều về truyền thống, lòng yêu nước chung chung, thiếu cụ thể. Thực tế mà tôi rút ra được ở một số nước về thực hiện các phong trào, các cuộc vận động xã hội là họ cung cấp nguồn lực cần thiết để khuyến khích chính quyền địa phương và người dân nơi đó thực hiện. Ở đâu, cá nhân nào làm giỏi thì được khen, ai làm dở là cắt luôn. Còn ở nước ta, có phong trào với rất nhiều tiêu chí đặt ra hình như để xài tiền ngân sách nhà nước, còn cuộc sống của người dân thực sự có tốt hơn không thì phải xem lại…”.

 Theo kế hoạch, hội thảo diễn ra trong 1 ngày, nhiều đại biểu ở các tỉnh xa đã phải đi trước 1 ngày, 1 ngày họp và đến hôm sau mới về. Thế nhưng, đến 11 giờ 25, hội thảo kết thúc.

 Ra về, đại biểu nào cũng chung suy nghĩ: Họp ngắn, nói ít nhưng có nhiều việc phải làm. Nhiều đại biểu ở các tỉnh xa, sau bữa ăn trưa đã lên xe về giải quyết công việc ở nhà, không phải mất thêm 1 ngày nữa, tiết giảm được một khoản chi phí không nhỏ cho việc ăn ở, xe cộ đi lại... (Sài Gòn Giải Phóng 1/8, Hoài Nam) Về đầu trang

Tăng lương cho cán bộ, công chức: Chất lượng công việc có tăng?

Tại Nghị quyết 27 -NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp do Ban Chấp hành Trung ương ban hành nêu rõ: Từ năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương mới thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị.

 Năm 2021, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp. Đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp. Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.

 Nghị quyết 27 cũng nêu rõ việc phải xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng.

 Đây là mục tiêu Nghị quyết 27 đề ra, nhưng để thực hiện được lại là một việc không đơn giản. Với bộ máy được cho là rất cồng kềnh, kém hiệu quả, là gánh nặng vô cùng lớn của ngân sách. Nếu tăng lương mà giữ nguyên hiện trạng đội ngũ, chất lượng như hiện nay thì chắc chắn không ngân sách nào chịu nổi. Chính vì thế, công cuộc tinh giản biên chế phải được thực hiện ráo riết, hiệu quả hơn. Về lý thuyết và nguyên tắc là như vậy, nhưng thời gian qua chúng ta đã thất bại trong tinh giản biên chế. Chúng ta không loại được ai ra khỏi bộ máy, thậm chí bộ máy còn phình to.

 Kết quả tinh giản biên chế chủ yếu tập trung ở nhóm người đến tuổi nghỉ hưu, nghỉ mất sức hoặc chủ động xin nghỉ việc ở các cơ quan Nhà nước. Nhưng ở một chiều khác lại có không ít cán bộ có năng lực, tư duy tốt đã nói lời chia tay với cơ quan Nhà nước để làm việc cho các tổ chức nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ.

 Muốn đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ thì khâu tuyển dụng, đánh giá cán bộ phải là then chốt. Thế nhưng, thực tế dễ thấy nhiều qui định về bằng cấp, chứng chỉ trong tuyển chọn, đánh giá cán bộ không còn phù hợp. Đơn cử như qui định hồ sơ tuyển dụng phải có chứng chỉ tin học văn phòng A, B, C. Đây là một trong những qui định đã có từ hơn 20 năm nay, khi mà tin học văn phòng vẫn là một kỹ năng vô cùng “xa xỉ”. Còn bây giờ, chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sử dụng máy tính là một kỹ năng thông dụng để một người có thể làm được việc. Nhưng chúng ta vẫn qui định chứng chỉ tin học là một trong những giấy tờ bắt buộc phải có khi tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ.

 Tăng lương có ý nghĩa gì khi mà tình trạng tham nhũng vặt, nhũng nhiễu, làm khó người dân và doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến?; khi mà nhiều người vẫn coi việc vào cơ quan Nhà nước chỉ là “bàn đạp” cho những mục đích khác; Và tình trạng “sáng cắp ô đi tối cắp ô về”, đến cơ quan thì ngồi uống nước trà, tán chuyện phiếm… không phải là chuyện hiếm.

 Nếu không có một “cuộc cách mạng” thực sự về công tác cán bộ, việc tinh giản biên chế khó như “tự ghè đá vào chân” vẫn phải quyết tâm làm… thì việc tăng lương sẽ trở nên lãng phí, chỉ là tăng gánh nặng cho ngân sách mà thôi. (VOV.vn 1/8, An Nhi)Về đầu trang

Đề xuất đặt tiền bảo lãnh thay vì để Cảnh sát giao thông giữ xe

Bộ Công an đang đăng tải dự thảo lần hai Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 115/2013 quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính.

 Theo Bộ Công an, dự thảo lần này được soạn thảo trên tinh thần khắc phục những hạn chế, bất cập của Nghị định 115/2013 nhằm phù hợp với yêu cầu thực tiễn và tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính.

 Một trong những nội dung đáng chú ý là quy định về giao phương tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản.

 Theo đó, có hai trường hợp được thực hiện quyền trên. Thứ nhất là cá nhân vi phạm có nơi đăng ký thường trú hoặc có đăng ký tạm trú còn thời hạn, hoặc có giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác. Tổ chức vi phạm phải có địa chỉ hoạt động cụ thể, rõ ràng.

 Thứ hai là tổ chức, cá nhân vi phạm có khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được giữ, bảo quản phương tiện.

 Đặc biệt, Bộ Công an quy định rất chi tiết đối với nội dung bảo lãnh phương tiện. Cụ thể, tổ chức, cá nhân vi phạm khi muốn được giữ, bảo quản phương tiện thì phải làm đơn gửi cơ quan có thẩm quyền tạm giữ. Việc đặt tiền bảo lãnh chỉ được thực hiện sau khi người có thẩm quyền tạm giữ ra quyết định cho đặt tiền bảo lãnh.

 Mức tiền đặt bảo lãnh ít nhất phải bằng mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt quy định cho một hành vi vi phạm. Trường hợp thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính trong cùng một vụ vi phạm thì mức tiền đặt bảo lãnh ít nhất phải bằng tổng mức tiền phạt tối đa của các hành vi vi phạm.

 Trong thời hạn hai ngày kể từ ngày nhận tiền đặt bảo lãnh, người có thẩm quyền tạm giữ phương tiện phải chuyển ngay số tiền đó vào bộ phận tài vụ của cơ quan mình để quản lý.

 Trường hợp người có thẩm quyền tạm giữ phương tiện để mất tiền đặt bảo lãnh hoặc sử dụng tiền đặt bảo lãnh thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật và phải bồi hoàn theo quy định của pháp luật. 

Cần lưu ý, phương tiện vi phạm trong thời gian được giao cho tổ chức, cá nhân giữ, bảo quản sẽ không được phép lưu hành.

 Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt mà tổ chức, cá nhân không chấp hành quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định khấu trừ tiền đặt bảo lãnh để thi hành quyết định xử phạt.

 Trường hợp số tiền đặt bảo lãnh lớn hơn số tiền xử phạt thì phần còn lại của số tiền đặt bảo lãnh sau khi đã trừ số tiền xử phạt được trả lại cho tổ chức, cá nhân đặt bảo lãnh. (VTV.vn 1/8, Tuyến Phan)Về đầu trang

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

Người đứng đầu phải thực hiện nghiêm các thủ tục hành chính

Đó là ý kiến chỉ đạo của Thứ trưởng Thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN & PTNT) Hà Công Tuấn trong việc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm về cải cách hành chính (CCHC) 6 tháng cuối năm 2019 của Bộ NN & PTNT.

 Báo cáo cho thấy, trong 6 tháng đầu năm, công tác CCHC của Bộ tiếp tục được triển khai đồng bộ trên 6 nội dung CCHC trong đó trọng tâm xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử gắn với CCHC, triển khai văn bản điện tử, dịch vụ công trực tuyến, cơ chế một cửa quốc gia... từng bước tạo sự chuyển biến trong chỉ đạo, điều hành của Bộ theo hướng kiến tạo, phục vụ.

 Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật ngành NN&PTNT được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm chỉ đạo, trực tiếp chỉ đạo, đảm bảo hoàn thành kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) theo đúng tiến độ; thực hiện Nghị quyết 18, Nghị quyết 39 và Kế hoạch số 07-KH/TW, Bộ NN&PTNT đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt, có bài bản trong tất cả các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, nên trong thời gian ngắn (từ tháng 11/2017 đến nay) đã cơ bản thực hiện theo đúng chủ trương, kế hoạch và đạt được một số kết quả nhất định.

 Bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu như chất lượng văn bản QPPL trên một số lĩnh vực vẫn còn hạn chế; cơ cấu lãnh đạo cấp phòng tại một số đơn vị thuộc Bộ còn chưa hợp lý; một số đơn vị còn chậm công bố thủ tục hành chính (TTHC), một số nội dung triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông còn chậm do khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất.

 Việc tiếp nhận và trả kết quả TTHC còn chậm do việc quy định chưa hợp lý, số lượng hồ sơ tập trung vào một thời điểm, lỗi phần mềm trên hệ thống một cửa quốc gia và hệ thống dịch vụ công trực tuyến dẫn đến kết quả thống kê số hồ sơ trả lời quá hạn thiếu chính xác...

 Thứ trưởng Hà Công Tuấn đã yêu cầu trong thời gian tới, người đứng đầu các đơn vị phải thực hiện nghiêm các TTHC đã được cắt giảm. Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ NN&PTNT phải tăng cường kiểm tra, giám sát để việc thực hiện đảm bảo đúng yêu cầu, mục đích.

 “TTHC không phải là bất biến, do đó các đơn vị phải liên tục rà soát cắt giảm. Dư địa để cắt giảm TTHC của ngành Nông nghiệp vẫn còn”, ông Tuấn nhấn mạnh.

 Về nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2019, để tập trung triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ CCHC của Bộ theo đúng yêu cầu, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo sự chuyển biến thực chất về môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh lĩnh vực nông nghiệp, các đơn vị thuộc Bộ cần thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng, ban hành các nghị định, thông tư  quy định chi tiết thi hành Luật Chăn nuôi, Luật Trồng trọt có quy định thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, sản phẩm kiểm tra chuyên ngành đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, không tạo rào cản gia nhập thị trường, không làm phát sinh chi phí cho doanh nghiệp.

 Tiếp tục thực hiện cải cách toàn diện công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành; rà soát văn bản quy định, chỉ định các tổ chức chứng nhận phù hợp, triển khai mạnh mẽ xã hội hóa công tác kiểm tra chuyên ngành; rà soát các nhóm hàng chịu 2 hoặc nhiều hình thức kiểm tra chuyên ngành thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ; thống nhất giao một đầu mối thực hiện 1 thủ tục kiểm tra chuyên ngành đối với các sản phẩm, hàng hóa kiểm tra chồng chéo; xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn phục vụ kiểm tra chuyên ngành.

 Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định TTHC, đảm bảo các nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi thực hiện TTHC; đồng thời cũng bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả các quy định về TTHC; bảo đảm tính liên thông giữa các TTHC liên quan, thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch, hợp lý… (Thanh Tra 31/7, Lê Phương) Về đầu trang

Đà Nẵng đứng thứ 4 toàn quốc trong cải cách hành chính

Ngày 31/7, UBND thành phố Đà Nẵng công bố kết quả đánh giá, xếp hạng công tác cải cách hành chính và văn thư lưu trữ năm 2018 của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố.

 Theo kết quả công bố chỉ số cải cách hành chính 2018 (PAR INDEX 2018) của Bộ Nội Vụ, thành phố Đà Nẵng xếp hạng 4 với tổng số điểm là 83,7 điểm, đứng sau tỉnh Quảng Ninh (89,6 điểm), Hà Nội (83,98 điểm) và Đồng Tháp (83,71 điểm). Sau 5 năm dẫn đầu liên tiếp, năm 2017 và năm 2018 thành phố Đà Nẵng xếp hạng thứ 4.

 Trong đó, kết quả điều tra xã hội về sự hài lòng của tổ chức, công dân trên địa bàn, thành phố Đà Nẵng đạt 87,43% hài lòng, xếp thứ 17/63 tỉnh, thành phố. Kết quả điều tra đại biểu HĐND, lãnh đạo các sở, ban ngành, lãnh đạo phòng ban thuộc sở và lãnh đạo UBND các quận, huyện đạt 70,85% hài lòng, xếp thứ 46/63 tỉnh, thành phố.

 Kết quả đánh giá xếp hạng cải cách hành chính của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2018 như sau: Cơ quan Trung ương có 3/5 cơ quan xếp nhóm rất tốt, 2/5 cơ quan xếp nhóm tốt; đối với khối sở, ban, ngành có 4/20 cơ quan xếp rất tốt, 9/20 cơ quan xếp nhóm tốt, 5/20 cơ quan xếp vào nhóm khá, 1/20 cơ quan xếp nhóm trung bình, 1/20 cơ quan xếp nhóm yếu; đối với khối UBND quận, huyện có 1/7 quận, huyện xếp vào nhóm rất tốt, 6/7 quận, huyện xếp nhóm tốt.

 Điểm mạnh của khối cơ quan trung ương là công tác chỉ đạo điều hành, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý như Cục Hải quan, Bảo hiểm Xã hội, Cục Thuế.

 Đối với khối quận, huyện trong năm 2018 đã có nhiều sáng kiến, giải pháp mới trong công tác cải cách thủ tục hành chính, chú trọng đến thực hiện các đề án liên thông, liên kết, đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính.

 Các khối sở, ban, ngành đã có nhiều sáng kiến, cải tiến mới được thành phố công nhận và áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả xử lý công việc, phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn.

 Về kết quả đánh giá, xếp loại công tác văn thư, lưu trữ năm 2018: Đối với khối sở, ban, ngành, đơn vị sự nghiệp có 3 cơ quan xếp loại xuất sắc, 8 cơ quan xếp loại tốt, 7 cơ quan xếp loại khá, 17 cơ quan xếp loại trung bình, 9 cơ quan xếp loại chưa đạt. (Bnews.vn 1/8, Võ Văn Dũng) Về đầu trang

Hải Dương tiếp tục xây dựng kiến trúc chính quyền điện tử

Hải Dương tiếp tục xây dựng kiến trúc chính quyền điện tử, nâng cao tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 và hiệu quả hoạt động của Trung tâm hành chính công, phấn đấu đến cuối năm 2019 cơ bản hoàn thành xây dựng hệ thống “Một cửa điện tử” đến cấp xã.

 Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương Nguyễn Dương Thái đã nhấn mạnh như vậy tại Hội nghị sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm của Ban Chỉ đạo xây dựng chính quyền điện tử tỉnh Hải Dương, diễn ra ngày 31/7. Đây là kỳ họp thứ hai của tỉnh Hải Dương không phát hành văn bản giấy.

 Để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, Hải Dương tiếp tục triển khai cấp chứng thư số cho các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; tích hợp chữ ký số vào các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh như hệ thống quản lý văn bản, một cửa điện tử, dịch vụ công trực tuyến…

 Tỉnh đặt mục tiêu cuối năm 2019 sẽ hoàn thành việc ký số trên phần mềm quản lý văn bản và điều hành, hệ thống "Một cửa điện tử" và dịch vụ công. Hải Dương cũng xác định tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực; đặc biệt ưu tiên một số ngành như y tế, giáo dục, du lịch, nông nghiệp, tài nguyên môi trường, giao thông vận tải… làm cơ sở sở cho việc tham gia của tổ chức và công dân trong môi trường chính quyền điện tử.

 Đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong phục vụ người dân và doanh nghiệp, tỉnh Hải Dương xác định triển khai có hiệu quả các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin gắn kết chặt chẽ với chương trình cải cách hành chính, hướng tới xây dựng chính quyền điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 đến cấp xã.

 Đồng thời, tỉnh tiếp tục triển khai hệ thống “Một cửa điện tử” và Cổng dịch vụ công trực tuyến. Bên cạnh đó, tỉnh cũng tập trung xây dựng nền tảng chia sẻ dữ liệu dùng chung để đảm bảo kết nối, liên thông, chia sẻ dịch vụ, dữ liệu giữa các hệ thống thông tin nội bộ của tỉnh, kết nối với hệ thống của Trung ương; hiện đại hóa hạ tầng ứng dụng công nghệ thông tin gắn với cải cách hành chính, hướng đến một hệ thống quản lý điện tử, không giấy tờ.

 Cổng Dịch vụ công trực tuyến tỉnh Hải Dương và hệ thống “Một cửa điện tử” đã đi vào hoạt động ở 18 sở, ban, ngành; tất cả các huyện, thành phố; 20 xã/phường thành phố Chí Linh; 21 xã/thị trấn huyện Kim Thành; 19 xã/thị trấn huyện Thanh Miện; 27 xã/thị trấn huyện Tứ Kỳ; 23 xã/thị trấn huyện Gia Lộc. Hệ thống “Một cửa điện tử” tại Trung tâm Phục vụ hành chính công của tỉnh cũng đã đi vào hoạt động.

 Đến nay, tỉnh đã cấp được 1.154 chữ ký số cho các cán bộ, công chức của các sở, ban, ngành, các địa phương. Cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh (dichvucong.haiduong.gov.vn) đang cung cấp khoảng 1.700 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 129 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 phục vụ tổ chức, doanh nghiệp và công dân tham gia giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường mạng. (Baotintuc.vn 31/7, Mạnh Minh) Về đầu trang

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH

Công an tỉnh Sóc Trăng nợ ngân sách hơn 5,4 tỉ đồng

Lãnh đạo Công an tỉnh Sóc Trăng vừa có báo cáo gửi Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương về tình hình dư nợ ngân sách do mượn tiền Nhà nước cho quỹ sản xuất chi, giai đoạn 2011-2016 liên quan tới một số tập thể, cá nhân tại Công an tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011-2016.

 Theo đó, từ tháng 1-2011 đến tháng 10-2016, tổng thu quỹ sản xuất của Công an tỉnh Sóc Trăng là hơn 38,1 tỉ đồng nhưng tổng chi hơn 45,9 tỉ đồng. Trong đó, giám đốc Đặng Hoàng Đa (hiện đang là phó cục trưởng Cục Xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, Bộ Công an) đã chi trên 28,8 tỉ đồng. Đáng chú ý khoản tiền chi tiếp khách, mua quà biếu lên đến hơn 26,5 tỉ đồng.

 Theo báo cáo, trong hai năm 2009 và 2010, Công an tỉnh Sóc Trăng ký gửi 172.000 lít xăng dầu tại một doanh nghiệp (DN) ở TP Sóc Trăng. Việc theo dõi, quản lý nhiên liệu ký gửi không mở sổ sách theo dõi. 

Đầu năm 2018, chủ DN được ký gửi xăng dầu bị bệnh qua đời và đến nay DN này còn nợ Công an tỉnh Sóc Trăng trên 116.000 lít xăng dầu nhưng không có khả năng thu hồi. Lý do là chủ DN mất, DN này đã giải thể.

 Công an tỉnh Sóc Trăng thời điểm đó đã tạm mượn kinh phí ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để sử dụng cho quỹ sản xuất và qua các lần trả đến nay còn nợ trên 5,4 tỉ đồng.

 Công an tỉnh Sóc Trăng kiến nghị lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương xem xét khoản nợ 5,4 tỉ đồng mà quỹ sản xuất (thời ông Đa) mượn ngân sách hiện công an tỉnh không có nguồn thu nào để chi trả… 

Đối với cá nhân có liên quan, khi Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương báo cáo Bộ Công an có hướng xử lý, Công an tỉnh Sóc Trăng sẽ xử lý trách nhiệm theo quy định.

 Chiều 1-8, PV đã liên hệ qua điện thoại với Thiếu tướng Đặng Hoàng Đa. Tuy nhiên, ông Đa không nghe máy.

 Vụ việc đang được Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương xử lý. (Pháp Luật TPHCM 1/8, G.Tuệ - N.Đức)Về đầu trang

SAI PHẠM ĐIỂN HÌNH

Cần Thơ: Cựu Trưởng Phòng Nông nghiệp bị phạt 6,5 năm tù

Sau hai ngày nghị án, ngày 31-7, TAND huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ đã tuyên án vụ tham ô tài sản xảy ra tại trại giống nông nghiệp huyện này.

 HĐXX tuyên bị cáo Đoàn Đức Trường (cựu Trưởng Phòng NN&PTNT, kiêm Giám đốc trại giống Nông nghiệp huyện) một năm sáu tháng tù về tội cố ý làm trái... và năm năm tù về tội tham ô tài sản, bị cáo Võ Kim Thư chín tháng tù về tội cố ý làm trái và hai năm sáu tháng tù về tội tham ô tài sản.

 Đồng thời, HĐXX tuyên bị cáo Phạm Thị Thúy Ân (cựu Phó Giám đốc Trại giống) bốn năm tù, còn ba bị cáo Phạm Ngọc Tâm (phụ trách kế toán), Nguyễn Thị Lan Viên (thủ quỹ), Lê Văn Lạc (cán bộ kỹ thuật kiến thủ kho) mỗi bị cáo bị phạt hai năm tù cùng về tội tham ô tài sản.

 Theo cáo trạng, Trại giống Nông nghiệp huyện trực thuộc Phòng NN&PTNT huyện Vĩnh Thạnh. Từ năm 2012 - 2015, với vai trò Giám đốc trại giống, bị cáo Trường đã chỉ đạo cho Ân, Tâm, Thư và kế toán Cao Hồng Tươi lập chứng từ duyệt chi sai quy định gây thiệt hại hơn 239 triệu đồng.

 Trường và Ân bị cáo buộc bàn bạc việc tặng quà cho khách hàng và các đơn vị có liên quan dịp Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014. Trường chỉ đạo cho Thư và thủ quỹ Thu lập khống 11 chứng từ gây thiệt hại hơn 84,8 triệu đồng. (Pháp Luật TPHCM 1/8, Hải Dương)Về đầu trang

THẾ GIỚI

Nhật Bản quyết định mục tiêu tăng lương tối thiểu theo giờ trong tài khóa 2019 lên 3%

Quyết định trên được Tiểu ban của Hội đồng Tiền lương tối thiểu Trung ương Nhật Bản đưa ra hôm 31/7.

 Tiểu ban của Hội đồng Tiền lương tối thiểu Trung ương gồm: Bộ Lao động, đại diện người lao động, doanh nghiệp và các học giả Nhật Bản.

 Mục tiêu tăng giảm lương tối thiểu do Hội đồng Tiền lương tối thiểu Trung ương đưa ra một năm một lần. Đây là căn cứ quan trọng để chính quyền địa phương đưa ra mức lương tối thiểu vùng, dự kiến từ tháng 10 tới đây. Năm nay, lần đầu tiên, mức lương tối thiểu vùng tại 2 thành phố Tokyo và tỉnh Kanagawa đã vượt ngưỡng 1.000 Yen, tương đương 210.000 đồng/giờ làm việc.

 Theo báo Nikkei, mục tiêu tăng lương tối thiểu năm tài khóa 2019 trung bình toàn Nhật Bản tăng lên 901 Yen/giờ làm việc, tăng 27 Yen, tương đương 3% so với năm trước. Nhìn vào sơ đồ cho thấy, mục tiêu lương tối thiểu đã tăng liên tục kể từ năm 2008, đây là thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp.

 Trong mục tiêu lương tối thiểu đối với từng địa phương, năm nay Tokyo vẫn có mức cao nhất lên đến 1.013 Yen/giờ, tiếp đến là tỉnh Kanagawa là 1.011 Yen/giờ, 2 tỉnh này lần đầu tiên vượt ngưỡng 1.000 Yen. Tỉnh có mức lương tối thiểu thấp nhất là Kagoshima với mức 787 Yen/giờ.

 Hãng thông tấn Kyodo, trích dẫn phát biểu của Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga trong cuộc họp báo cùng ngày rằng, Chính phủ muốn nhanh chóng đạt được mục tiêu lương tối thiểu trung bình toàn quốc vượt 1.000 Yen/giờ, đồng thời tính toán biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.

 Tờ báo này cũng đưa ra bài viết với nhan đề "Lo ngại ảnh hưởng đến doanh nghiệp vừa và nhỏ", trích dẫn theo đánh giá của ông Akio Mimura, Chủ tịch Phòng Thương mại Công nghiệp Nhật Bản, mục tiêu năm nay đã tăng đáng kể với lương tối thiểu, rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sẽ không vượt qua chi phí tăng lương này.

 Mức lương tối thiểu tác động trước tiên đối với những người làm việc bán thời gian, phần đông là phụ nữ và người già. Nhiều ý kiến đã cho rằng lương hưu không đủ sống đã hối thúc Chính phủ Nhật Bản tìm cách tăng lương tối thiểu. (VTV.vn 1/8)Về đầu trang./.

 

SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

 

More