Bản tin phục vụ lãnh đạo ngày 17-7-2019

Post date: 17/07/2019

Font size : A- A A+

 Tải file tại đây

CHÍNH SÁCH.. 1

1.Tổ chức vi phạm trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí bị phạt tới 200 triệu đồng  1

2. Quy định mới về quản lý, sử dụng đất trồng lúa. 3

CHỈ THỊ MỚI 4

3.Bộ Xây dựng yêu cầu phòng chống rửa tiền trong kinh doanh bất động sản. 4

TIN QUỐC HỘI 4

4.  Phiên họp thứ 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Kỳ họp thứ Bảy thành công trên nhiều phương diện. 4

5. Đã tinh giản hơn 1.000 biên chế và dự kiến giảm 623 xã, phường, thị trấn. 5

6.   Hướng đến Quốc hội điện tử. 7

TƯ DUY MỚI - CÁCH LÀM HAY.. 8

7. Mô hình quản lý hay cần nhân rộng. 8

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP. 9

8. Nhiều người nước ngoài chọn Việt Nam để sống và làm việc. 9

9.Việt Nam đứng thứ 54/162 quốc gia về chỉ số phát triển bền vững. 10

QUẢN LÝ.. 10

10.Phấn đấu đạt 15% cán bộ nữ trong cấp ủy. 10

11.Số hóa dữ liệu đất đai toàn quốc. 11

12. Tăng tuổi nghỉ hưu làm gì khi sức khỏe người Việt cực kém?. 11

13.Cảnh sát giao thông lần đầu sử dụng camera chuyên dụng trong thi hành công vụ. 12

14.TP.HCM cần tiếp tục dẫn đầu cả nước về quản lý giao thông thông minh. 13

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH.. 13

15.  Chậm giải ngân ODA và hệ lụy. 13

16.Ngành thuế có gần 40.000 tỷ nợ khó thu. 14

SAI PHẠM ĐIỂN HÌNH.. 15

17. Cách chức Ủy viên Ban cán sự đảng đối với nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường. 15

THẾ GIỚI 16

18.Philippines siết chặt cấp phép lao động cho người nước ngoài 16

19.Người nước ngoài ở Hàn Quốc phải tham gia bảo hiểm y tế. 17

 CHÍNH SÁCH

Tổ chức vi phạm trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí bị phạt tới 200 triệu đồng

Chính phủ ban hành Nghị định 63/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.

 Theo Nghị định, hình thức xử phạt chính quy định tại Nghị định này bao gồm: Cảnh cáo và phạt tiền. Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước là 50.000.000 đồng đối với cá nhân và 100.000.000 đồng đối với tổ chức; trong lĩnh vực thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 triệu đồng đối với tổ chức.

 Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính.

 Cụ thể, trong lĩnh vực thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Nghị định quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng phương tiện thông tin liên lạc, điện, nước, xăng, dầu, sách báo, văn phòng phẩm, tổ chức hội nghị, hội thảo, chi phí tiếp khách, đi công tác trong và ngoài nước bằng kinh phí ngân sách nhà nước vượt tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

 Đối với hành vi vi phạm quy định của pháp luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng quỹ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, Nghị định quy định phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với các hành vi: Sử dụng quỹ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước sai mục đích, tôn chỉ của quỹ do cấp có thẩm quyền ban hành; sử dụng quỹ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước không đúng quy chế hoạt động, cơ chế tài chính của quỹ được cấp có thẩm quyền ban hành.

 Đối với hành vi gây lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn, vượt định mức, đơn giá theo quy định của pháp luật bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.

 Đối với hành vi vi phạm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản công tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Nghị định quy định mức phạt như sau:

 Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định về trích lập và quản lý, sử dụng các quỹ trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước không đúng mục đích, vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

 Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước gây lãng phí và hành vi mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản, vật tư trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước không đúng với quy định của pháp luật về quản lý tài chính, tài sản công, quản lý đầu tư xây dựng.

 Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với hành vi mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản cố định, vật tư và các tài sản khác trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

 Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi quản lý, sử dụng các khoản chi phí trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn nhà nước không đúng định mức, đơn giá, tiêu chuẩn, chế độ quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (Báo Chính Phủ Điện Tử 15/7, Phương Nhi)Về đầu trang

Quy định mới về quản lý, sử dụng đất trồng lúa

Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa.

 Cụ thể, Nghị định số 62/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung điều kiện chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản:

 a- Không làm mất đi các điều kiện phù hợp để trồng lúa trở lại; không gây ô nhiễm, thoái hóa đất trồng lúa; không làm hư hỏng công trình giao thông, công trình thủy lợi phục vụ trồng lúa.

 b- Phù hợp với kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản trên đất trồng lúa của cấp xã, đảm bảo công khai, minh bạch.

 c- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang trồng cây lâu năm phải theo vùng, để hình thành các vùng sản xuất tập trung và khai thác hiệu quả cơ sở hạ tầng sẵn có; phù hợp với định hướng hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp của địa phương.

 d- Trường hợp trồng lúa đồng thời kết hợp nuôi trồng thủy sản, cho phép sử dụng tối đa 20% diện tích đất trồng lúa để hạ thấp mặt bằng cho nuôi trồng thủy sản, độ sâu của mặt bằng hạ thấp không quá 120cm, khi cần thiết phải phục hồi lại được mặt bằng để trồng lúa trở lại.

 Nghị định số 62/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ để bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; trong đó sửa đổi, bổ sung quy định sử dụng kinh phí hỗ trợ.

 Theo đó, UBND các cấp sử dụng kinh phí do người được nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp từ đất chuyên trồng lúa nước nộp và nguồn kinh phí hỗ trợ theo quy định để thực hiện bảo vệ, phát triển đất trồng lúa. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, địa phương sẽ quyết định thực hiện hỗ trợ cho người trồng lúa: sử dụng không thấp hơn 50% kinh phí dùng hỗ trợ cho người trồng lúa để áp dụng giống mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất lúa; hỗ trợ liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

 Phần kinh phí còn lại để thực hiện các việc: a- Phân tích chất lượng hóa, lý tính của các vùng đất chuyển trồng lúa nước có năng suất, chất lượng cao định kỳ 10 năm để sử dụng hiệu quả và có biện pháp cải tạo phù hợp; b- Cải tạo nâng cao chất lượng đất chuyên trồng lúa nước hoặc đất trồng lúa nước còn lại: tăng độ dày của tầng canh tác; tôn cao đất trồng lúa trũng, thấp; tăng độ bằng phẳng mặt ruộng; thau chua, rửa mặn đối với đất bị nhiễm phèn, mặn và các biện pháp cải tạo đất khác; c- Đầu tư xây dựng, duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn xã, trong đó ưu tiên đầu tư hệ thống giao thông, thủy lợi trên đất trồng lúa; d- Khai hoang, phục hóa đất chưa sử dụng thành đất chuyên trồng lúa nước hoặc đất trồng lúa nước còn lại.

 Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2019. (Báo Chính Phủ Điện Tử 15/7, Minh Hiển)Về đầu trang

CHỈ THỊ MỚI

Bộ Xây dựng yêu cầu phòng chống rửa tiền trong kinh doanh bất động sản

Các Sở phải yêu cầu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quản lý, môi giới bất động sản, sàn giao dịch thực hiện các quy định về nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng, rà soát các giao dịch.

 Đáng chú ý, Sở Xây dựng các địa phương phải yêu cầu các sàn, môi giới lập và gửi báo cáo các giao dịch đáng ngờ hoặc giao dịch tiền mặt có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên về Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) và Cục Phòng, Chống rửa tiền (Ngân hàng Nhà nước).

 Văn bản cũng nêu, môi giới, sàn bất động sản có thể liên hệ với Cục Phòng, chống rửa tiền để có thông tin và hướng dẫn về các danh sách đen để tránh các rủi ro trong giao dịch. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

TIN QUỐC HỘI

Phiên họp thứ 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Kỳ họp thứ Bảy thành công trên nhiều phương diện

Sáng 16.7, tiếp tục Phiên họp thứ 35, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội (QH) Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về tổng kết Kỳ họp thứ Bảy, QH Khóa XIV; xem xét, phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

 Theo Báo cáo tổng kết kỳ họp thứ Bảy do Tổng Thư ký QH, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc trình bày, sau 20 ngày làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, dân chủ, QH đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình, xem xét, thông qua 7 luật, 10 nghị quyết, cho ý kiến về 9 dự án luật; phê chuẩn nhân sự, tiến hành giám sát chuyên đề, chất vấn và trả lời chất vấn; xem xét các báo cáo về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và nhiều báo cáo quan trọng khác.

 Bên cạnh kết quả đạt được, việc tổ chức Kỳ họp thứ Bảy vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục được lưu ý rút kinh nghiệm như: chất lượng chuẩn bị một số nội dung còn hạn chế; hồ sơ tài liệu của một số dự án luật, nghị quyết gửi đến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) quá chậm, làm ảnh hưởng đến chất lượng tham gia ý kiến và quyết định của ĐBQH; việc tổng kết, đánh giá tác động trong một số dự án luật chưa được quan tâm đúng mức. Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn vẫn còn một số ý kiến chất vấn mang tính bình luận, giải thích, trùng lắp; có đại biểu nêu chất vấn còn dài, chưa rõ ý, chất vấn quá thời gian quy định; một số nội dung trả lời chất vấn còn chung chung, chưa đúng trọng tâm. Một số kiến nghị của của cử tri chưa được Chính phủ, các bộ, ngành trả lời rõ ràng, chưa xác định thời gian giải quyết cụ thể, nhất là các vấn đề được ĐBQH và cử tri quan tâm. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm phục vụ có lúc, có nơi chưa đáp ứng mong muốn của ĐBQH.

 Tổng Thư ký QH, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc đề nghị, thời gian tới, cần nâng cao chất lượng chuẩn bị các dự án luật, bảo đảm kỹ thuật lập pháp trước khi trình QH; tăng cường công tác giám sát, trong đó tập trung các vấn đề được cử tri và Nhân dân quan tâm như: công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cải cách tư pháp, gian lận thi cử, giá xăng, giá điện, mê tín dị đoan, bạo lực học đường, bạo lực gia đình… góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của Nhân dân. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, cải tiến cách thức tổ chức nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả kỳ họp, trong đó bảo đảm để các cơ quan có thời gian tập trung tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, dự thảo nghị quyết trong kỳ họp. Tăng cường thông tin về kỳ họp trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền sâu rộng để tạo đồng thuận về các nội dung nhạy cảm, phức tạp. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác phục vụ kỳ họp…

 Trình bày Báo cáo công tác chỉ đạo chuẩn bị Kỳ họp thứ Bảy, QH Khóa XIV của Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết, Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ và các cơ quan liên quan đã tích cực phối hợp, chủ động chuẩn bị các nội dung tài liệu trình QH. Văn phòng Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của QH để xây dựng Chương trình làm việc hợp lý, có sự điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thực tế và hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Chính phủ, bảo đảm đúng nội quy Kỳ họp của QH.

 Việc xử lý, trả lời kiến nghị của cử tri và trả lời chất vấn của ĐBQH trước khi khai mạc Kỳ họp thứ Bảy đã được các thành viên Chính phủ thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm. Các nội dung trả lời rõ ràng, giải trình ngắn gọn. Bên cạnh đó, các thành viên Chính phủ còn thông tin thêm tới cử tri, ĐBQH về các quy định pháp luật có liên quan khác cũng như kế hoạch triển khai khắc phục những vấn đề cử tri kiến nghị.

 Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ chủ động tăng cường phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH trong công tác chuẩn bị tài liệu Kỳ họp. (Đại Biểu Nhân Dân 16/7, Thanh Chi)Về đầu trang

Đã tinh giản hơn 1.000 biên chế và dự kiến giảm 623 xã, phường, thị trấn

Đây là nội dung đáng chú ý này được Bộ Nội vụ đưa ra tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2019 diễn ra sáng 16/7, tại Hà Nội.

 Chánh văn phòng Bộ Nội vụ cho biết, từ năm 2015 đến 30/6/2019, Bộ Nội vụ đã thẩm tra, tinh giản biên chế với số lượng 41.515 người. Trong đó, từ tháng 10/2018 đến 30/6/2019 là 1.015 người, bao gồm: Cơ quan đoàn thể đảng 1 người, cơ quan hành chính: 22 người, đơn vị sự nghiệp công lập: 285 người, cán bộ công chức xã: 57 người, số còn lại thuộc hợp đồng lao động chiếm cao nhất là 650 người. Cũng theo Bộ Nội vụ, tính đến tháng 6/2019, biên chế khối cơ quan Chính phủ quản lý đã giảm được 6,75% so với số giao năm 2015; đã có 54/63 tỉnh thực hiện việc sáp nhập các trung tâm có chức năng tương đồng để thành lập trung tâm phòng ngừa và kiểm sát bệnh tật; có 437/713 đơn vị cấp huyện thực hiện hợp nhất bệnh viện huyện và trung tâm y tế.

 Thực hiện đề án văn hoá công vụ, các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện nhiều biện phát siết chặt kỷ cương, kỷ luật hành chính, bảo đảm sự nghiêm minh trong thực thi nhiệm vụ, công vụ; kỷ luật hành chính, thực thi công vụ; công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước đi vào nền nếp. Đến nay có 36 cơ quan đơn vị thực hiện thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng.

 Tuy nhiên, Bộ Nội vụ cũng thừa nhận, công tác đề bạt, bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ ở một số bộ, ngành và địa phương vẫn còn chưa đúng quy định, gây bức xúc dư luận; vẫn còn phiền hà, gây nhũng nhiễu người dân khi giải quyết các công việc…

 Về công tác sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện theo Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Nội vụ cho biết, đến nay có 20/713 huyện và 623/11.162 xã thuộc diện phải sắp xếp lại theo Nghị quyết 653 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

 Theo đó, có 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có đơn vị hành chính cấp huyện thuộc diện phải sắp xếp. Trong đó, có 4 tỉnh, thành phố tiến hành sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, có 9 tỉnh đề nghị chưa tiến hành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện trong giai đoạn 2019-2021. Có 2 địa phương là TPHCM và Cần Thơ chưa có báo cáo về việc này.

 Đối với việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, có 653/11.162 xã thuộc diện phải sắp xếp và số xã thuộc diện khuyến khích sắp xếp và xã liền kề liên quan đến sắp xếp lên đến 1.026 đơn vị. Một số tỉnh có số lượng cấp xã sắp xếp lại nhiều như Hoà Bình giảm 59/210 xã (tỷ lệ giảm 28,09%), Cao Bằng giảm 40/199 xã (giảm 20,10%), Phú Thọ giảm 52/277 xã (giảm 18,77%), Hà Tĩnh giảm 46/264 xã (giảm 17,56%)…

 Số lượng đơn vị hành chính cấp xã mới hình thành bảo đảm 2 tiêu chí theo quy định về dân số và diện tích.

 Từ thực tế này, Bộ Nội vụ xác định, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm là tập trung tham mưu cấp thẩm quyền sớm hoàn thành việc giao biên chế công chức năm 2020; tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức; tập trung thực hiện quy định về tổ chức bộ máy, quản lý biên chế, xác định vị trí việc làm ngày khi được Chính phủ quan tâm. Đặc biệt, tham mưu, sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phân cấp theo phương châm “tăng tốc, bứt phá, siết chặt kỷ cương, kỷ luật hành chính”

 Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân nêu bật những kết quả mà ngành nội vụ đạt được 6 tháng đầu năm, là nền tảng quan trọng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong năm 2019.

 Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cũng chỉ rõ những hạn chế, thiếu sót cần nghiêm túc nhìn nhận để có giải pháp khắc phục kịp thời.

 Đó là, việc xây dựng thể chế, cụ thể hoá các văn bản của Trung ương còn chậm so với yêu cầu, tốc độ sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập và tự chủ chậm so với lộ trình; việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy sở, ban, ngành ở các địa phương chưa hoàn thành, thực hiện tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu.

 Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã còn khó khăn, vướng mắc; giải quyết chính sách khi sắp xếp cán bộ, công chức dôi dư sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính còn khó khăn, chính sách giải quyết dôi dư với người hoạt động không chuyên trách cấp xã cần có quy định cụ thể để triển khai thực hiện. (Báo Chính Phủ Điện Tử 16/7)Về đầu trang

Hướng đến Quốc hội điện tử

Ý tưởng về một Quốc hội điện tử được triển khai từ năm 1988 do Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội khi đó - ông Vũ Mão đề xuất. Công cụ điện tử đầu tiên ông đưa vào Quốc hội là cái máy bấm nút khi biểu quyết “hết 37 triệu đồng” theo lời ông. Chi tiết này không chỉ làm cho việc biểu quyết trên nghị trường trở nên dân chủ hơn, mà còn tạo ra những thay đổi tiếp theo về mặt kỹ thuật trong hoạt động của Quốc hội; để rồi 5 năm sau, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Đề án đầu tiên về tin học hóa hoạt động của Quốc hội Việt Nam (2003).

 Vào thời điểm đó, phải nói rằng sự sẵn sàng điện tử của đất nước là một thách thức rất lớn. Tất cả chỉ số công nghệ thông tin - truyền thông, ví dụ số máy điện thoại cố định, điện thoại di động, máy tính trên 1.000 dân của Việt Nam đều ở hàng rất thấp trong khu vực, nói gì so với mức trung bình thế giới. Số người dùng internet chưa tới 1 triệu, trong khi dân số cả nước là 80 triệu. Không chỉ thiếu vắng “cử tri điện tử”, ngay cả các “nghị sỹ điện tử” cũng chưa xuất hiện nhiều.

 Xuất phát trên nền tảng như vậy nhưng trong những năm sau đó, Quốc hội được đánh giá là nơi áp dụng công nghệ thông tin sớm nhất, hiệu quả nhất và với chi phí khiêm tốn nhất trong số các cơ quan nhà nước. Đến nay, Quốc hội đã có Cổng thông tin điện tử (quochoi.vn) mà ở đó, tất cả mọi người dân đều có thể tiếp cận được cơ sở dữ liệu văn bản pháp luật, thông tin về hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, phát biểu của các đại biểu Quốc hội và hồ sơ đại biểu Quốc hội các khóa… Từ tiền thân là trang “Ý kiến nhân dân về dự thảo luật, pháp lệnh”ra mắt lần đầu năm 2007, năm 2012 phiên bản mới mang tên “dự thảo online” (duthaoonline.quochoi.vn) được vận hành đã tạo gắn kết hai chiều giữa Quốc hội với cử tri trong hoạt động lập pháp:

 Quốc hội có thêm kênh thông tin để nắm bắt ý kiến, nguyện vọng của người dân, phục vụ cho việc chỉnh lý và hoàn thiện dự án luật, còn người dân có phương tiện hữu hiệu để theo dõi, tìm hiểu và góp ý vào quy trình hình thành và phê chuẩn chính sách tại Quốc hội...

 Cứ như thế, từng bước một, các công cụ điện tử ngày càng đưa Quốc hội đến gần người dân hơn và hỗ trợ các đại biểu Quốc hội thực hiện hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ của mình. Mới đây nhất, tại Kỳ họp thứ Bảy, một phần mềm hỗ trợ đại biểu Quốc hội được đưa vào sử dụng. Nhờ đó, các đại biểu không phải ôm theo những chồng tài liệu dày cộp đến nghị trường, mà chỉ với một chiếc điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng là có thể tra cứu được các nội dung đặt lên bàn nghị sự của Quốc hội. Đặc biệt, phần mềm này hỗ trợ rất nhiều cho các đại biểu trong hoạt động lập pháp, vì không chỉ cung cấp nội dung dự thảo luật, “lịch sử” xây dựng - từ khâu soạn thảo, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, mà còn tích hợp ý kiến đóng góp của chuyên gia, kinh nghiệm của các nước. Dù phần mềm mới ở giai đoạn chạy thử nghiệm nhưng được nhiều đại biểu đánh giá tích cực và cho rằng đây là sự thay đổi rất căn bản. Hệ thống công nghệ giúp tất cả tài liệu đến tay đại biểu đầy đủ, nhanh gọn, kịp thời, qua đó hỗ trợ đại biểu thực hiện tốt nhiệm vụ, đóng góp nhiều hơn cho đất nước và cử tri.

 Ngày 16/7, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục Phiên họp thứ 35 và cho ý kiến về chủ trương đầu tư xây dựng Dự án Quốc hội điện tử giai đoạn 2019 - 2026. Nền tảng để xây dựng Quốc hội điện tử giờ thuận lợi hơn rất nhiều. Mức độ sẵn sàng điện tử của đất nước giờ đây có thể nói là lý tưởng. Với hơn 60% dân số sử dụng internet, Việt Nam hiện đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người dùng. Trung bình mỗi ngày mỗi người dành 6 tiếng 42 phút để truy cập internet bằng bất kỳ phương tiện nào. Nói cách khác, chúng ta đã có cả cử tri điện tử và nghị sỹ điện tử. Và dù ở trong bối cảnh thời gian và không gian nào đi chăng nữa, nội dung quan trọng nhất của khái niệm Quốc hội điện tử là việc sử dụng công nghệ số để mở rộng tương tác giữa Quốc hội với cử tri. Theo nghĩa đó, “Quốc hội điện tử” thực chất là công cụ hỗ trợ Quốc hội và các đại biểu hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình với cử tri, đặc biệt trên phương diện cung cấp thông tin phục vụ đại biểu tốt hơn. Cũng theo nghĩa đó, “Quốc hội điện tử” là làm cho khoảng cách biến mất và các đại biểu dân cử có thể giao tiếp với cử tri một cách dễ dàng, thông suốt.

 Xây dựng dự án Quốc hội điện tử không đơn giản, nhưng là việc phải làm. Và để có một Quốc hội điện tử theo đúng nghĩa thì mọi việc không chỉ là công nghệ mà vấn đề nằm ở chính quyết tâm, ý chí triển khai. (Đại Biểu Nhân Dân 16/7, Hà Lan)Về đầu trang

TƯ DUY MỚI - CÁCH LÀM HAY

Mô hình quản lý hay cần nhân rộng

Mới đây, tại cuộc giao ban báo chí do Thành ủy Hà Nội tổ chức, lãnh đạo UBND quận Nam Từ Liêm cho biết, việc triển khai mô hình "Chính quyền, công sở thân thiện, trách nhiệm" sẽ là điểm nhấn trong công tác cải cách hành chính của địa phương này. 

Ðiểm nhấn đó bắt nguồn từ nỗ lực cải thiện sự hài lòng của người dân. Bằng hành động cụ thể, có tính bắt buộc như gửi thư xin lỗi đối với các tổ chức, cá nhân khi chậm giải quyết thủ tục hành chính, thư cảm ơn, thư chúc mừng... đối với cá nhân, tổ chức góp ý xây dựng khi giải quyết các công việc liên quan đến chính quyền. Mô hình này được Sở Nội vụ, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội nghiên cứu để triển khai trên toàn thành phố.

 Trong quá trình đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hướng tới nền hành chính hiện đại, ý thức công vụ vì dân, nhiều địa phương đã có những sáng kiến kéo gần khoảng cách giữa bộ máy hành chính nhà nước với người dân. Ở Bắc Ninh, nhiều địa phương đã thực hiện bộ phận tiếp dân không kính, hay mô hình chính quyền thân thiện khi dỡ hàng rào sắt bao quanh công sở. Trụ sở UBND quận 12, TP Hồ Chí Minh được nhiều người dân dành cảm tình. Khuôn viên ở đây được ví như công viên với phần lớn diện tích trồng cây xanh, nuôi chim, thả cá... tạo cảm giác thoải mái cho người dân khi đến làm thủ tục hành chính. Ðiểm nhấn là khu vực tiếp dân với tòa nhà rộng 300 m2, có lắp đặt hệ thống điện mặt trời.

 Người dân chờ làm thủ tục hành chính trong không gian xanh mát, tiện nghi, cảm giác dễ chịu và được tôn trọng. Tại Quảng Ninh, chương trình "Nụ cười Hạ Long" đã lan tỏa ý thức vì cộng đồng và xã hội, góp phần quảng bá hình ảnh mảnh đất, con người thân thiện, mến khách đến với khách du lịch và các nhà đầu tư. Hưởng ứng "Nụ cười Hạ Long", các cơ quan, đơn vị, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp trên địa bàn đã tham gia tích cực bằng những việc làm cụ thể, truyền tải thông điệp đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động. Tại Trung tâm Hành chính công TP Hạ Long, bộ Quy tắc ứng xử "Nụ cười Hạ Long" đã được ứng dụng với thái độ phục vụ thân thiện, hòa nhã và tuân thủ các quy định, chuẩn mực, ứng xử văn minh trong thực thi công vụ.

 Xây dựng nền hành chính hiện đại, công sở thân thiện, trách nhiệm là yêu cầu cấp thiết đáp ứng nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Bộ máy chính quyền không thể tồn tại những biểu hiện, hành vi kiểu xin - cho khi tiếp xúc với người dân. Người dân khi có việc tới trụ sở cơ quan công quyền không còn e ngại thái độ đón tiếp, làm việc khó chịu của một số cán bộ, công chức. Thay vì lý giải cụ thể, tường tận thì ở nơi này nơi kia, cán bộ, công chức gây khó dễ hoặc trả lời cho qua chuyện. Do đó, những mô hình như nêu trên cần được ứng dụng rộng rãi, để chấm dứt tình trạng "xin" làm thủ tục hành chính hay cảnh người dân phải vươn mình, chui qua ô kính mới giao tiếp được với cán bộ tiếp dân, gây phản cảm. (Nhân Dân 16/7, Lê Vy) Về đầu trang

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ  - HỘI NHẬP

Nhiều người nước ngoài chọn Việt Nam để sống và làm việc

Theo thống kê, năm 2008 có gần 53.000 người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Sau 10 năm, số lượng đã tăng lên gần 60%.

 Theo báo cáo HSBC Expat 2019, Việt Nam lần đầu tiên lọt vào top 10 quốc gia tốt nhất cho những người nước ngoài sống và làm việc trên thế giới. Bảng xếp hạng dựa trên đánh giá về chất lượng cuộc sống, cơ hội nghề nghiệp và cuộc sống gia đình. Trong đó, mức sống ổn định và cơ hội thăng tiến là những yếu tố quyết định đến sự lựa chọn của người nước người khi tới Việt Nam.

 Sau thời gian làm việc ở nhiều quốc gia tại Đông Nam Á, ông Lars - Chủ tịch HĐQT NFQ Asia đã quyết định chọn Việt Nam để phát triển sự nghiệp. Hơn 4 năm sinh sống và làm việc, ông thấy quyết định của mình là sự lựa chọn không thể tốt hơn.

 Ông Lars Jankowfsky nói: "Nền kinh tế Việt Nam nhiều năm qua phát triển mạnh, do đó cơ hội tìm kiếm việc làm của tôi tại Việt Nam cũng dễ dàng hơn. Công ty của tôi cũng tuyển dụng nhiều người nước ngoài làm việc, bởi họ nhìn thấy cơ hội trong nghề nghiệp rất lớn".

 Theo thống kê, năm 2008 có gần 53.000 người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Sau 10 năm, số lượng đã tăng lên gần 60%. Mức lương người lao động nước ngoài được nhận tại Việt Nam vào khoảng 30.000 USD/năm, cao hơn bình quân trên thế giới khoảng 7%, trong khi đó chế độ đãi ngộ, cơ hội phát triển nghề nghiệp lại tương đối hấp dẫn.

 Ông Roger Lu - Phó Tổng Giám đốc Công ty chứng khoán Yuanta cho hay: "Ở Việt Nam, tôi thấy cơ hội có ở khắp mọi lĩnh vực từ bất động sản, tới các cơ hội trên thị trường vốn... Đây là mảnh đất chúng tôi có nhiều cơ hội để mở rộng kinh doanh, đặc biệt trong những lĩnh vực chúng tôi có lợi thế về chuyên môn, nhiều kinh nghiệm".

 "Tôi nhận thấy người nước ngoài có cơ hội rất cao trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam. Nhu cầu dành cho những người hoạt động trong lĩnh vực này tăng cao trong những năm gần. Tôi tin rằng trong thời gian tới, cơ hội nghề nghiệp cho người nước ngoài sẽ còn tăng cao hơn nữa", ông Matthew Michael Smith - Chuyên gia chứng khoán cho biết.

 Theo công ty nghiên cứu thị trường Navigos Group, nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài trong năm 2019 tăng 23% so với năm trước đó. Các lĩnh vực kinh doanh, marketing, nhà hàng khách sạn, giáo dục đã và đang thu hút người nước ngoài làm việc nhiều nhất.

Bà Phạm Thị Hoài Linh - Giám đốc nhân sự Navigos Group cho biết: "Với mức độ ảnh hưởng của Hiệp định thương mại tự do và cạnh tranh thương mại hiện nay, tỷ lệ đầu tư FDI sẽ còn biến động và tăng rất nhiều trong thời gian tới. Từ đó, sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn cho người Việt Nam, đặc biệt là người nước ngoài".

 Tuy nhiên, để giữ chân người lao động có chất lượng làm việc dài hạn, không phải chỉ đơn giản là trải nghiệm một môi trường làm việc mới, các nhà tuyển dụng cho rằng, doanh nghiệp cũng cần phải chú trọng đến các chương trình đào tạo hội nhập và phúc lợi để thu hút lao động nước ngoài. (Kênh VTV1 – Bản tin Tài chính Kinh doanh lúc 21h54 ngày 15/7)Về đầu trang

Việt Nam đứng thứ 54/162 quốc gia về chỉ số phát triển bền vững

Chỉ số phát triển bền vững (gọi tắt là SDG) năm nay của Việt Nam tăng 34 bậc so với năm 2016. Thông tin này vừa được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra sáng 16/7, tại buổi làm việc giữa Tiểu ban Kinh tế - Xã hội của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng với các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh tại Cần Thơ.

 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, Việt Nam đứng thứ 54/162 quốc gia về chỉ số phát triển bền vững. Đây là một chỉ số của Liên Hợp Quốc đánh giá kết quả thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Như vậy, Việt Nam đã tăng 34 bậc về chỉ số phát triển bền vững so với năm 2016 và 3 bậc so với năm ngoái.

 Thủ tướng nhấn mạnh sự tăng bậc này rất quan trọng. Việt Nam đứng thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Thái Lan và đứng trên Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines. Chỉ số xếp hạng của Việt Nam cao là nhờ thành tích về xóa đói giảm nghèo đạt 95 điểm, giáo dục 91 điểm, tiếp cận năng lượng 82 điểm, mô hình tiêu dùng, sản xuất bền vững 87 điểm, ứng phó với biến đổi khí hậu 94 điểm. Tuy nhiên, Việt Nam có điểm thấp ở lĩnh vực cơ sở hạ tầng 26 điểm, phát triển bền vững đại dương 45 điểm, quản lý hệ sinh thái tài nguyên rừng 48 điểm.

 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, chỉ số phát triển bền vững đã cho thấy thành quả của Việt Nam cũng như của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua được khẳng định. Tuy nhiên thách thức đối với vùng này vẫn còn rất lớn.

 Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng nhấn mạnh tới quan điểm phát triển đối với 13 tỉnh, thành trong vùng là không chỉ lo phát triển kinh tế mà còn phải phát triển xã hội nhằm đưa vùng này ra khỏi vũng trũng về văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ. Từ bài học kinh nghiệm qua phát triển các mô hình mới, Thủ tướng đề nghị lãnh đạo các địa phương cần đề xuất những phương hướng mới phát triển vùng này theo hướng liên kết và tương tác với Thành phố Hồ Chí Minh cũng như đề xuất một tầm nhìn mới về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long tới năm 2045. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

QUẢN LÝ

Phấn đấu đạt 15% cán bộ nữ trong cấp ủy

Sáng 15/7, chỉ đạo Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới được tổ chức tại tỉnh Bạc Liêu, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương đề nghị các địa phương cần nỗ lực hơn để đảm bảo tiêu chí tỷ lệ cấp ủy nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ.

 Nơi nào chưa đảm bảo thì tiếp tục chuẩn bị nhân sự để bổ sung cho nhiệm kỳ sắp tới. Về lâu dài, các địa phương cần phải có chiến lược đào tạo cán bộ nữ gắn với quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân sự nữ đủ điều kiện để cơ cấu vào các vị trí lãnh đạo.

 Trước đó, báo cáo tại hội nghị cho biết, đến nay nhiều huyện, xã vẫn không đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ trong cấp ủy. Có tỉnh chưa có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Nguồn nhân sự nữ đương nhiệm còn đủ tuổi tái cử thấp như Thành phố Cần Thơ chỉ khoảng 25%. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

Số hóa dữ liệu đất đai toàn quốc

Cấp xã sẽ hoàn thành việc kiểm kê, báo cáo kết quả trong tháng 1/2020, sau đó lần lượt đến cấp huyện, tỉnh. Dự kiến tháng 6/2020, cả nước sẽ hoàn thành công tác này.

 Việc kiểm kê đất đai chuyển từ giai đoạn thủ công sang ứng dụng công nghệ số hóa đã được Bộ trưởng Bộ TN-MT nhấn mạnh tại hội nghị "Triển khai công tác kiểm kê và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất đai" diễn ra ngày 15/7.

 Bộ trưởng Trần Hồng Hà nên rõ, việc ứng dụng công nghệ, số hóa dữ liệu sẽ giúp các đơn vị luôn cập nhật được hiện trạng khai thác, sử dụng đất. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

Tăng tuổi nghỉ hưu làm gì khi sức khỏe người Việt cực kém?

Nhiều bạn đọc đề nghị ban soạn thảo làm rõ cơ sở khoa học của đề xuất tăng tuổi hưu lên 60 đối với nữ và 62 đối với nam, đồng thời phân tích rõ những ưu điểm, nhược điểm của từng phương án về độ tuổi và lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu.

 Tại kỳ họp Quốc hội mới đây, thay mặt Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) đã trình 2 phương án nâng tuổi nghỉ hưu cho người lao động (NLĐ). Theo đó, Phương án 1: Kể từ ngày 1-1-2021, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với nam và 4 tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi. Phương án 2: Kể từ ngày 1-1-2021, tuổi nghỉ hưu của NLĐ trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 4 tháng đối với nam và đủ 55 tuổi 6 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với nam và 6 tháng đối với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.

 Thảo luận tại tổ, nhiều ý kiến tán thành tăng tuổi nghỉ hưu, nhưng cần đánh giá, phân loại và có danh mục cụ thể theo từng nhóm lao động cụ thể để xác định rõ những nhóm có thể tăng tuổi nghỉ hưu (ví dụ: công chức, người làm nghiên cứu khoa học…), những ngành nghề, công việc đặc thù không nên tăng (người lao động trực tiếp, giáo viên mầm non, tiểu học, nghệ sĩ xiếc, người làm nghệ thuật, vận động viên thể thao và cán bộ, công chức cấp xã…). Đồng thời, nhiều đại biểu đề nghị ban soạn thảo làm rõ cơ sở khoa học của đề xuất tăng tuổi hưu lên 60 đối với nữ và 62 đối với nam, đồng thời phân tích rõ những ưu điểm, nhược điểm của từng phương án về độ tuổi và lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu

 Gởi ý kiến đến Báo Người Lao động, bạn đọc Trần Thông, bày tỏ: "Đề nghị giữ nguyên tuổi nghỉ hưu như hiện nay và nới rộng ra NLĐ đến tuổi nghỉ hưu nhưng có đơn xin ở lại làm thêm nếu đủ điều kiện sức khỏe thì người sử dụng lao động được phép ký hợp động lao động (HĐLĐ) theo thỏa thuận. Còn đối với cán bộ công chức thì được làm thêm nhưng không được giữ chức vụ lãnh đạo.

 Theo bạn đọc Hà Văn Hùng, quy định tuổi về hưu, nên phân ra từng lĩnh vực ngành nghề sao cho phù hợp. Những NLĐ trực tiếp, không nên tang tuổi hưu vì năng suất thấp, sẽ gây khó khan cho doanh nghiệp và kể cả NLĐ. Quy định tuổi nghỉ hưu để căn cứ tính tỷ lệ % hưởng BHXH không thôi là không hợp lý.Quốc hội nên cân nhắc, khi sửa đổi ban hành luật sao cho vừa hợp lý và vừa hợp tình, hợp lòng dân và mang tính lâu dài. Thực tế hơn, bạn đọc Duy Linh, nêu thực trạng: Đa số NLĐ nhiều ngành nghề chưa đến tuổi nghỉ hưu như hiện nay đã không còn đủ sức khoẻ để làm việc, phía người sử dụng những lao động (ngành nghề nặng nhọc) cũng gặp khó khăn để sắp xếp việc phù hợp với sức khỏe của họ. Một số công việc hành chánh chuyên môn đến tuổi hưu cũng cần nghỉ để người trẻ có sức khỏe tốt lẫn chuyên môn được cập nhật phù hợp với thực tế hiện tại thay thế. Vậy có nhất thiết phải tăng tuổi nghỉ hưu hay không?

 Tương tự, bạn đọc Hoàng Thế Kiêm, nêu ví dụ: "Khi nam giới tới 60 tuổi, có thể do điều kiện khó khăn họ vẫn phải đi làm thêm, nhưng là làm theo sức khỏe của họ, không phải làm đủ 8h/1 ngày, tức là họ không bị ràng buộc về thời gian. Còn những người có điều kiện kinh tế họ sẽ được thư giãn vài năm trước khi chính thức hết cảm hứng về mọi vấn đề. Như vậy tăng tuổi nghỉ hưu sẽ bóc lột NLĐ cho tới khi họ kiệt sức, sống lay lắt cho đến khi qua đời. sức khỏe của người Việt cực kém, chỉ có tuổi thọ là tăng.

 Nhẹ nhàng hơn, bạn đọc Nguyễn Văn Hà, góp ý: "Nếu tăng tuổi nghỉ hưu thì nhà nước có những phương án cụ thể nào để các doanh nghiệp không được sa thải NLĐ khi họ trong độ tuổi nữ trên 55 nam trên 60 tuổi". Tương tự, bạn đọc Trần Quyên, bày tỏ: "Một vấn đề như vậy tại sao phải bàn cãi nhiều vậy, cứ giữ nguyên tuổi nghỉ hưu bắt buộc như hiện nay, với nam là 60 tuổi, nữ 55 tuổi. Ngoài tuổi nói trên, nếu cả nam và nữ ai còn sức khỏe còn nhu cầu, còn tâm huyết làm việc làm việc thì cứ để họ tự nguyện ở lại cống hiến tiếp, còn ai muốn nghỉ thì họ xin nghỉ. Làm như vậy sẽ phù hợp với các ngành nghề, các vị trí lao động. (Người Lao Động 16/7)Về đầu trang

Cảnh sát giao thông lần đầu sử dụng camera chuyên dụng trong thi hành công vụ

Từ 15.7 – 14.8, Cục Cảnh sát giao thông ra quân tổng kiểm tra ôtô khách, xe tải và xe máy trên toàn quốc. Đây cũng là lần đầu tiên lực lượng chức năng sử dụng camera chuyên dụng để giám sát toàn bộ quá trình thi hành công vụ.

 Phó cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông Đỗ Thanh Bình cho biết, việc trang bị camera nhằm tăng cường minh bạch, ngăn chặn các hành vi cản trở, chống đối người thi hành công vụ. Camera chuyên dụng thiết kế nhỏ gọn, có dây đeo. Ổ cứng dung lượng từ 64 Gb trở lên, phía sau có màn hình màu hiển thị các thông số của thiết bị. Mặt trước thiết bị gồm camera và cảm biến hồng ngoại giúp cảnh sát ghi hình vào ban đêm. Ngoài ra, camera còn có kết nối không dây với trung tâm chỉ huy để có thể truyền hình ảnh trực tiếp.

 Cũng trong đợt ra quân này, cảnh sát giao thông sẽ sử dụng nhiều thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ giám sát trật tự an toàn giao thông, trong đó có máy đo tốc độ để phát hiện các hành vi vi phạm. Trên tuyến cao tốc, cảnh sát giao thông sẽ tổ chức kiểm soát tại điểm đầu, điểm cuối hoặc khu vực trạm thu phí. Còn trên các tuyến quốc lộ, lực lượng chức năng sẽ làm nhiệm vụ tại các trạm cảnh sát giao thông và một số điểm để tránh làm ảnh hưởng đến hoạt động của các phương tiện giao thông khác.

 Đợt cao điểm tổng kiểm tra phương tiện được diễn ra tại các tuyến cao tốc, đường trọng yếu trên cả nước. Những trường hợp không dừng ngay được phương tiện vi phạm, cảnh sát giao thông sẽ gửi thông báo yêu cầu người vi phạm đến giải quyết theo quy định. Trong đợt này, cảnh sát giao thông sẽ tập trung xử lý các vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông như vi phạm về nồng độ cồn, sử dụng ma túy, vi phạm quy định về bảo vệ môi trường, vận chuyển chất nổ hoặc hàng cấm…

 Tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, cảnh sát giao thông địa phương cũng ra quân tổng kiểm tra ô tô khách, xe tải và xe máy tại tuyến quốc lộ, đường dẫn vào thành phố. Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng như sử dụng ma túy, vận chuyển chất cháy nổ, hàng giả… tùy mức độ sẽ bị đình chỉ lưu hành hoặc tạm giữ phương tiện. (Đại Biểu Nhân Dân 16/7, Nhật Phương)Về đầu trang

TP.HCM cần tiếp tục dẫn đầu cả nước về quản lý giao thông thông minh

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân chỉ đạo thành phố phải tiếp tục giữ vững vị thế dẫn đầu cả nước về quản lý giao thông thông minh.

 Trong đề án Xây dựng TP.HCM trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến 2025, giao thông vận tải là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu. Trong các giải pháp của đề án này, Trung tâm Điều hành giao thông thông minh TP.HCM hiện mới hoàn thành giai đoạn 1 với việc đưa vào sử dụng Trung tâm Giám sát và điều khiển giao thông đầu năm 2019.

 Dù mang lại nhiều hiệu quả tích cực nhưng việc triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại gặp nhiều khó khăn về ứng dụng công nghệ và cơ sở hạ tầng truyền dẫn. Đối với thành phố có dân số trên 10 triệu dân, số lượng 1.000 camera vẫn còn là thấp so với thế giới. Mặt khác, hai vấn đề quan trọng là hệ thống pháp lý và nguồn nhân lực vẫn còn chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ hiện nay.

 TP.HCM đang hướng tới xây dựng hệ thống mạng riêng, kết hợp thí điểm triển khai mạng 5G. Trong thời gian tới, Trung tâm Giám sát và điều khiển giao thông sẽ được kết nối, chia sẻ hoạt động đồng bộ với 4 trung tâm thành phần của Đề án đô thị thông minh. Ông Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, thành phố sẽ hỗ trợ hết sức cho đề án này, tiếp tục tháo gỡ các khó khăn phát sinh nhanh nhất để TP.HCM tiếp tục dẫn đầu cả nước về quản lý giao thông thông minh. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH

Chậm giải ngân ODA và hệ lụy

Vốn ODA chậm giải ngân đã đến mức báo động. Năm 2019, Quốc hội giao dự toán là 60.000 tỷ đồng nhưng 5 tháng đầu năm 2019 mới chỉ giải ngân được 2,7% dự toán.

 Không chỉ năm nay mà trong giai đoạn 2016-2020 vốn ODA cũng chậm ì ạch, khi Quốc hội giao 360.000 tỷ đồng nhưng đến hết tháng 5/2019 mới giải ngân được 37%. Việc chậm giải ngân vốn ODA sẽ ảnh hưởng chung tới sự phát triển kinh tế - xã hội và gây ra nhiều hệ lụy.

 Dự án đường sắt trên cao tuyến 3 Nhổn - Ga Hà Nội, được xây dựng từ vốn ODA đã chậm tiến độ so với kế hoạch 4 năm. Một trong những nguyên nhân chính đó là không có vốn. Năm 2019, dự án này chỉ được cấp 84 tỷ đồng trên nhu cầu 1.300 tỷ đồng, chưa đầy 7%.

 Tiến độ giải ngân ODA qua các năm cũng đang ngày càng chậm dần. Trong khi năm 2016 giải ngân đạt 81%, đến năm 2018 giảm chỉ còn 53% dự toán Quốc hội giao. Điều này dẫn đến việc tiền chưa tiêu nhưng vẫn phải trả lãi, dự án thì tiếp tục chậm tiến độ.

 Một số nguyên nhân chính đã được chỉ ra khiến giải ngân ODA chậm như: Vướng mắc về thủ tục đầu tư, vướng mắc về thủ tục giải ngân, rút vốn; kế hoạch đầu tư công trung hạn bố trí thiếu vốn so với nhu cầu và phân bổ chậm; đặc biệt là việc điều chỉnh kế hoạch vốn cứng nhắc, không thể điều chỉnh vốn từ dự án thừa vốn sang dự án thiếu vốn.

 Chậm giải ngân vốn ODA sẽ khiến công trình chậm tiến độ và tiếp tục đội vốn. Vốn tăng, chi phí quản lý tăng, trong khi hiệu quả công trình giảm có thể gây ra sự lãng phí xã hội lớn bởi công trình không được khai thác đúng tiến độ. (Kênh VTV1 – Bản tin Tài chính Kinh doanh lúc 21h38 ngày 15/7)Về đầu trang

Ngành thuế có gần 40.000 tỷ nợ khó thu

Trong 6 tháng đầu năm 2019, ngành thuế đã đôn đốc, thu hồi được 16.381 tỷ đồng tiền nợ thuế, bằng 42,3% nợ thuế đến 90 ngày và trên 90 ngày tại thời điểm 31/12/2018. Tổng số nợ thuế của toàn ngành ước tính đến 30/6/2019 là 83.389 tỷ đồng, trong đó nợ có khả năng thu là 44.481 tỷ đồng.

 Thống kê trên được nêu ra trong báo cáo tại Hội nghị sơ kết công tác thuế 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ, giải pháp công tác thuế 6 tháng cuối năm 2019, do Tổng cục Thuế tổ chức ngày 15/7.

 Theo Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Phi Vân Tuấn, trong 6 tháng đầu năm 2019, số thu do Tổng cục Thuế quản lý ước đạt 597.786 tỷ đồng, bằng 51,2% so với dự toán pháp lệnh, tăng 12,5% so với cùng kỳ, trong đó, thu từ dầu thô đạt 30.350 tỷ đồng, bằng 68% dự toán.

 Trong tổng số thu gần 600 nghìn tỷ đồng nói trên, thu nội địa ước đạt 567.437 tỷ đồng, bằng 50,5% so với dự toán pháp lệnh, tăng 13,2% so với cùng kỳ 2018. Trừ tiền sử dụng đất, cổ tức và thu từ xổ số kiến thiết và chênh chênh lệc thu chi của Ngân hàng Nhà nước, thì số thu ước đạt 48,9% dự toán pháp lệnh, tăng 13,5% so với cùng kỳ.

 Có 50/63 địa phương tiến độ thu nội địa đạt trên 50% dự toán, trong đó có 44/63 địa phương đạt khá.

 Đối với công tác thanh, kiểm tra chống thất thu ngân sách nhà nước, trong 6 tháng đầu năm, cơ quan thuế các cấp đã thanh, kiểm tra được 35.344 doanh nghiệp, đạt 40,5% kế hoạch năm. Tổng số kiến nghị xử lý qua thanh tra kiểm tra đạt 20.546 tỷ đồng, bằng 118% so với cùng kỳ 2018. Trong đó, tăng thu là 5.691,9 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 929,8 tỷ đồng; giảm lỗ là 13.924 tỷ đồng.

 Ngành thuế cũng đã tiến hành thanh tra 150 doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết; truy thu, truy hoàn và phát 693,4 tỷ đồng; giảm lỗ 2.488,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ 9,04 tỷ đồng và điều chỉnh tăng thu nhập chịu thuế 2.661,6 tỷ đồng. Thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế giá trị gia tăng đối với 2.642 quyết định, tương ứng với số tiền hoàn là: 13.561, 94 tỷ đồng, qua đó truy hoàn và phạt là 75,83 tỷ đồng.

 Đáng chú ý, ngành thuế đã đôn đốc, thu hồi được 16.381 tỷ đồng tiền nợ thuế, bằng 42,3% nợ thuế đến 90 ngày và trên 90 ngày tại thời điểm 31/12/2018. Tổng số nợ thuế của toàn ngành ước tính đến 30/6/2019 là 83.389 tỷ đồng, trong đó nợ có khả năng thu là 44.481 tỷ đồng.

 Về công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế, trong 6 tháng đầu năm, cơ quan thuế các cấp đã giải đáp vướng mắc cho người nộp thuế bằng 8.417 văn bản, hơn 23.000 hỗ trợ qua hình thức điện tử…Cung cấp tổng số 84.167b tin, bài, tiểu phẩm, phóng sự trên các báo giấy, báo điện tử. Tổ chức 636 lớn tập huấn về chế độ, chính sách thuế, 581 buổi đối thoại với lượng người tham dự 86.671 người.

 Theo thống kê của Tổng cục Thuế, đến thời điểm 30/6/2019, toàn quốc có 729.466 đang hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng 31.871 doanh nghiệp so với thời điểm 31/12/2018.

 Trong 6 tháng cuối năm, ngành thuế phấn đấu thu vượt tối thiểu 5% dự toán ngân sách nhà nước; thực hiện thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp đạt tối thiểu tỷ lệ 19% số doanh nghiệp đang hoạt động; giảm số tiền nợ thuế xuống dưới 5% số thu ngân sách nhà nước năm 2019, thu tối thiểu 80% số tiền nợ thuế có khả năng thu tại thời điểm 31/12/2018 chuyển sang. (VnEconomy.vn 16/7)Về đầu trang

SAI PHẠM ĐIỂN HÌNH

Cách chức Ủy viên Ban cán sự đảng đối với nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường

Vi phạm, khuyết điểm của đồng chí Nguyễn Hồng Trường là nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng, ngành Giao thông vận tải và cá nhân đồng chí.

 Ngày 16/7/2019, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Ban Bí thư họp xem xét, thi hành kỷ luật đối với Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải và đồng chí Nguyễn Hồng Trường, nguyên Ủy viên Ban cán sự đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải.

 Sau khi xem xét Tờ trình số 214-TTr/UBKTTW, ngày 12/7/2019 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Bí thư nhận thấy: Đối với Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải nhiệm kỳ 2011 - 2016, đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, Quy chế làm việc của Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải và Quy định số 172-QĐ/TW, ngày 07/3/2013 của Bộ Chính trị; ban hành nghị quyết trái với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm trong thực hiện cổ phần hóa, tái cơ cấu và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, đơn vị thuộc Bộ Giao thông vận tải và trong thực hiện một số dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông tại Tổng Công ty Cảng Hàng không Việt Nam.

 Vi phạm, khuyết điểm của Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải nhiệm kỳ 2011 - 2016 là nghiêm trọng, làm thiệt hại và thất thoát lớn tiền, tài sản của Nhà nước, để nhiều cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và ngành Giao thông vận tải.

 Căn cứ Quy định số 07-QĐ/TW, ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị về xử lý tổ chức đảng vi phạm. Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả của vi phạm, Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải nhiệm kỳ 2011 - 2016 bằng hình thức cảnh cáo.

 Đối với đồng chí Nguyễn Hồng Trường, nguyên Ủy viên Ban cán sự đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải: Trong thời gian giữ cương vị Ủy viên Ban cán sự đảng, Thứ trưởng, Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ Giao thông vận tải, đồng chí cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải. Chịu trách nhiệm cá nhân về ký các quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp, phương án cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp, đơn vị thuộc Bộ Giao thông vận tải, đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cổ phần hóa, cho cổ phần hóa… không đúng thẩm quyền, vi phạm các quy định của pháp luật về cổ phần hóa, quản lý vốn tại các doanh nghiệp; đồng ý cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam thực hiện một số hoạt động không đúng với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2013 và các quy định của Chính phủ; thiếu kiểm tra, để các doanh nghiệp được phân công phụ trách vi phạm, khuyết điểm gây thất thoát tài sản của nhà nước.

 Quá trình kiểm điểm, đồng chí Nguyễn Hồng Trường đã nhận thức rõ vi phạm và trách nhiệm của mình trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công.

 Vi phạm, khuyết điểm của đồng chí Nguyễn Hồng Trường là nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng, ngành Giao thông vận tải và cá nhân đồng chí.

 Căn cứ Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/12/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả các vi phạm và quá trình công tác, Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn Hồng Trường bằng hình thức cách chức Ủy viên Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải nhiệm kỳ 2011 - 2016, 2016 - 2021. Đồng thời, Ban Bí thư yêu cầu cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật về hành chính đối với đồng chí Nguyễn Hồng Trường đồng bộ với xử lý kỷ luật về Đảng. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

THẾ GIỚI

Philippines siết chặt cấp phép lao động cho người nước ngoài

Bộ Lao động và Việc làm Philippines cho biết, Chính phủ nước này đang nghiên cứu áp dụng thêm những quy định bổ sung đối với người lao động nước ngoài.

 Theo đó, ngoài những yêu cầu hiện hành, người nước ngoài muốn làm việc tại Philippines còn phải có giấy "Chứng nhận không phản đối" do Bộ này cấp.

 Theo bà Dominique Tutay - Giám đốc Cục Việc làm địa phương thuộc Bộ Lao động và Việc làm Philippines, Tổng thống Duterte đã yêu cầu bổ sung quy định mới này nhằm góp phần ngăn chặn các mối đe dọa khủng bố. Ông Duterte cho rằng Philippines đang phải đối mặt với nguy cơ an ninh xuất phát từ việc các cá nhân có tư tưởng thù địch đang tìm cách xâm nhập nước này.

 Bà Tutay cũng nêu rõ, ngoại trừ Bộ Tư pháp, tất cả các cơ quan khác của Chính phủ Philippines có chức năng cấp thị thực hoặc giấy phép liên quan đến việc làm cho người nước ngoài đều phải yêu cầu người lao động có "Chứng nhận không phản đối". Tuy nhiên, việc được cấp chứng nhận này không có nghĩa là người lao động nước ngoài tự động được chấp thuận làm việc tại Philippines.

 Quy định mới được cho là để tăng cường kiểm soát và đảm bảo an ninh của Philippines trong bối cảnh ngày càng có nhiều lao động nước ngoài vào làm việc tại nước này, gây nên những phức tạp về mặt an ninh và các vấn đề xã hội khác. (VTV.vn 16/7)Về đầu trang

Người nước ngoài ở Hàn Quốc phải tham gia bảo hiểm y tế

Tất cả người nước ngoài phải tham gia hệ thống bảo hiểm y tế nếu họ ở lại Hàn Quốc trong 6 tháng hoặc lâu hơn. Đây là nội dung theo Đạo luật Bảo hiểm Y tế Quốc gia của Hàn Quốc sửa đổi có hiệu lực từ ngày 16/7. Đạo luật trên đã được sửa đổi để thắt chặt quản lý đối với lĩnh vực này.

 Cụ thể, người nước ngoài mặc định không đăng ký hoặc không trả phí bảo hiểm sẽ được yêu cầu chi trả 100% hóa đơn y tế của họ. Công dân nước ngoài sẽ đóng bảo hiểm y tế tối thiểu 96 USD/tháng, số tiền chính xác được xác định theo thu nhập và tài sản. Quy định mới này sẽ được miễn tạm thời cho sinh viên và người có visa đào tạo kỹ năng, tuy nhiên sẽ được áp dụng từ tháng 3/2021.

 Được biết, cho đến nay hầu hết sinh viên nước ngoài tại Hàn Quốc đều sử dụng các gói bảo hiểm y tế tư nhân có giá khoảng 100.000 - 110.000 Won/năm (từ 85 - 94 USD). (VTV.vn 16/7)Về đầu trang./.

 

SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

More