Những phẩm chất đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam

14:26, Thứ Hai, 16-3-2015

Xem với cỡ chữ : A- A A+
Nhìn vào người phụ nữ Việt Nam, chúng ta sẽ thấy hiện ra ba con người rõ nét nhất: Người lao động, Người nội trợ và Người chiến sĩ.

Mở đầu:

Từ thời đại nguyên thuỷ cho đến ngày nay, các thế hệ phụ nữ từ đời này qua đời khác nối tiếp nhau đã sống trên giải đất Việt Nam. Có mối dây liên hệ nào giữa những người phụ nữ đó? Người phụ nữ hiện đại gắn bó ra sao với những thế hệ phụ nữ đã sống trước họ? Và ý nghĩa của sự gắn bó đó là gì?

Sự tìm hiểu bước đầu về vai trò và phẩm chất tinh thần của người phụ nữ ở Việt Nam qua các thời đại cho thấy đã có một truyền thống chung, xuyên suốt nghìn vạn năm sinh tồn và tiến hoá của người phụ nữ trên giải đất này. Người phụ nữ Việt Nam hiện đại là những người kế thừa và đang phát huy truyền thống đó. Những điều mà họ đang tự hào cũng là những điều mà thế giới đang quan tâm, chính là những điều gắn bó với cái truyền thống mà họ đã từng được tôi luyện và bây giờ đang được nối truyền.

Những người phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhán, thường là mảnh dẻ, vẻ bề ngoài giản dị ấy, dường như dễ gợi cho người nước ngoài nghĩ đến những cây lau - thứ cây cỏ bình thường có rất nhiều ở xứ nhiệt đới này từ rất lâu đời: “Các chị giống như cây lau mềm mại ...” – đó là nhận xét của Tổng thư ký Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế trong chuyến đi nghiên cứu phong trào phụ nữ Việt Nam năm 1968. Nhưng tiếp ngay ý thứ hai, người phụ trách phong trào phụ nữ dân chủ thế giới đã bổ sung thêm vào cách nhìn đó và đánh giá đầy đủ về người phụ nữ Việt-nam hiện đại: “Nhưng cây lau đó là bằng thép!”.

“Cây lau bằng thép” – hình tượng vừa cổ kính vừa hiện đại này đã phản ánh hình thái độc đáo của người phụ nữ Việt Nam ngày nay, mang nặng và gắn bó với truyền thống quá khứ, nhưng không ngừng ở lại đấy mà đang tích cực phát huy nó.

“Cây lau bằng thép” – hình tượng về những con người vừa mềm mại vừa cứng rắn này, còn có thể xem như một cách phản ánh tính cách chung của người phụ nữ Việt Nam, một tính cách đa dạng và phong phú nhưng đã ổn định từ trong lịch sử hàng nghìn năm.

Tìm hiểu, hình dung cho được những nét chung và cơ bản của một tính cách như thế là một vấn đề hệ trọng. Bởi vì nó cho phép đánh giá và nhận thức về bản chất, về những vấn đề mấu chốt của phụ nữ Việt Nam, để tìm ra những nét bao quát về tính cách của người phụ nữ Việt Nam.

I.Vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử

Tính cách của người phụ nữ Việt Nam có một nền tảng để hình thành là vai trò thực tiễn của họ trong lịch sử Việt Nam. Mặt khác, tính cách ấy cũng có tác dụng tạo điều kiện để người phụ nữ Việt-nam thực hiện vai trò của họ trong lịch sử. Đó là một quan hệ biện chứng, cho nên, để thấy rõ thêm tính cách của người phụ nữ Việt Nam, cần điểm qua vai trò của họ trong lịch sử Việt-nam.

Nói đến vai trò của người phụ nữ trong lịch sử, trước tiên không thể không nói về hoàn cảnh và điều kiện để thực hiện vai trò của họ, tức là nói về lịch sử Việt Nam, và quan hệ giữa lịch sử Việt Nam và người phụ nữ Việt Nam.

Từ khi loài người mới xuất hiện cho tới này, dải đất cong ven bờ Thái-bình-dương này đã trải qua nhiều biến thiên, chìm nổi, nhưng tính chất cơ bản của có thì chẳng đổi thay: đó là một thiên nhiên nhiệt đới rất đa dạng, khí hậu thất thường, tuy mày mỡ phì nhiêu những cũng thường xuyên xảy ra thiên tai nghiêm trọng. Cuộc đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn của những con người sống trên một đất nước như thế, tất phải là một cuộc đấu tranh bền bỉ, dẻo dai và dũng mãnh. Nhưng không chỉ có đơn thuần như vậy. Cuộc đấu tranh đó còn đòi hỏi phải có mưu trí, sáng tạo và linh hoạt.

Cũng do vị trí tự nhiên đặc biệt, mà nếu từ quá khứ rất xa xăm, đất nước này đã là nơi giao hội của những nền văn minh khác nhau, thì càng về sau, nó càng giữ một vị trí đầu cầu, trở thành nơi đụng độ giữa các thế lực vật chất và tinh thần. Những tài nguyên ở đây, cũng đồng thời làm cho lòng tham hắc ám của những thế lực hung bạo đầu sỏ phản động luôn luôn thèm khát. Do đấy mà, vì lý do sinh tồn và tiến bộ, cuộc đấu tranh của những con người ở đây, tất nhiên đã phải huy động đến tất cả mọi lực lượng vật chất cũng như tinh thần và diễn ra trên mọi mặt trận.

Những đặc điểm của xã hội và tự nhiên Việt Nam nói trên đã ảnh hưởng sâu sắc đến những người phụ nữ Việt Nam. Trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cũng còn có ảnh hưởng của một số yếu tố khách quan nữa, đã có những tác động không nhỏ đối với người phụ nữ.

Trước hết cần chú ý đến bối cảnh sinh hoạt tư tưởng và tinh thần của người phụ nữ Việt Nam: vấn đề tôn giáo – tín ngưỡng ở Việt Nam. Xưa cũng như nay, rất tự nhiên, không một tôn giáo chính thống nào có thể ngăn cản được sức vươn lên mạnh mẽ của con người Việt Nam và của phụ nữ Việt Nam. Trên nền tảng của những tín ngưỡng nguyên thuỷ được bảo lưu dai dẳng và trà trộn biến hoá vào trong những tôn giáo, học thuyết, được du nhập từ ngoài, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau - đạo Phật, đạo Giáo, đạo Nho, thậm chí cả đạo Thiên chúa nữa – sinh hoạt tôn giáo – tín ngưỡng ở Việt Nam, trong quảng đại nhân dân và trong quá trình lịch sử, tuy phức tạp và có lúc phiền toái, nhưng lại có điều đặc sắc là không có vẻ gì sâu sắc nồng đượm, và ý nghĩa xã hội, nhân sinh thường đã át mất những điều huyền bí và trừu tượng. Do đấy mà, nếu ở nhiều nơi, tôn giáo là thứ đã góp phần kìm hãm trói buộc phụ nữ rất gắt gao và hạn chế lớn lao vai trò và khả năng của họ, bằng những tín điều phi lý, huyền hoặc của nó, thì ở Việt Nam, phụ nữ - nhất là phụ nữ ở các tầng lớp dưới – nói chung đã tránh được khá nhiều tai hoạ về mặt này.

Cũng cần chú ý đến cấu trúc cơ bản của xã hội Việt Nam trong một thời gian rất dài, là sự tồn tại của những xóm làng mang rất nhiều tàn dư của chế độ công xã cổ xưa, trong đó, những yếu tố dân chủ cộng đồng vẫn còn được bảo lưu ở những mức độ khác nhau và với nhiều biểu hiện khác nhau. Phép vua hà khắc phải thua lệ làng. Mà lệ làng thì ở lúc suy đốn nhất của nó là thời Pháp thống trị, ở nhiều nơi cũng vẫn còn có nhiều điều dành cho dân những ảnh hưởng nhất định. Trong một cấu trúc cơ bản của xã hội với những truyền thống có thể coi là “dân chủ”, người phụ nữ Việt Nam đã có thêm được những hoàn cảnh đặc biệt; nếu ở nhiều nơi, xã hội càng phát triển, mức độ đè nên, khống chế nhân dân càng cao, thì ở Việt Nam, chính nhân dân các làng xã là người chủ yếu làm ra những tiến bộ lịch sử qua các thời kỳ, và rất có ý thức bảo vệ những quyền lợi và vai trò làm chủ của mình. Từ môi trường đó, người phụ nữ Việt Nam, trong một thời gian rất dài, đã có những điều kiện hỗ trợ đáng kể để sống và hoạt động theo những truyền thống tích cực của mình.

Đây chính là yếu tố khách quan của lịch sử tạo ra những hoàn cảnh tồn tại đáng chú ý của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng nếu con người không chỉ là sản phẩm thụ động của lịch sử, thì ở người phụ nữ Việt Nam, điều cần khẳng định và tìm hiểu sâu sắc, chính là vai trò mà họ đã đảm nhiệm, trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều nét độc đáo của Việt Nam. Vai trò lịch sử đó rõ ràng có nhiều điểm rất đặc sắc cần được đánh già và ghi nhận.

Trong thời đại nguyên thuỷ, như đã diễn ra ở mọi miền đất có người cư trú trên quả địa cầu này, những người phụ nữ sống trên dải đất ngày nay là Việt Nam, là những người, trong hàng vạn năm, đã đảm nhiệm những vai trò chính yếu về rất nhiều mặt. Vấn đề lớn nhất của thời đại đầu tiên đó của lịch sử Việt Nam, là sự khẳng định của con người, từ chỗ tách ra khỏi giới động vật đến chỗ làm chủ thiên nhiên, đứng trên muôn loài và xây dựng những cơ sở đầu tiên của văn minh. Chính những người phụ nữ nguyên thuỷ ở Việt Nam - bằng lao động và tổ chức lao động, bằng việc gây dựng và điều khiển các cộng đồng thân tộc của họ, bằng việc gây dựng và điều khiển các cộng đồng thân tộc của họ, bằng các hoạt động xã hội mà họ là người quản lý – đã đảm bảo cho sự khẳng định của con người trở thành hiện thực ở Việt Nam thời nguyên thuỷ. Và trên cơ sở đó, chính họ là những người chủ yếu đã đảm bảo những bước phát triển đặc sắc của nền văn minh nguyên thuỷ Việt-nam.

Ở bước tan rã của xã hội nguyên thuỷ chuyển lên thời đại xã hội có giai cấp, thời đại đầy dẫy biến động và do đó, tồn tại phổ biến những sự khác biệt và phát triển không đồng đều giữa các cộng đồng người và các khu vực. Ở Việt Nam cổ đại, đã xuất hiện một hiện tượng độc đáo, liên quan đến vấn đề phụ nữ, như đã thấy, về sự chuyển biến từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền có đặc điểm phức tạp và thời gian quá độ kéo dài. Cho nên, nếu ở nhiều nơi, sự tiến triển của xã hội từ thời đại nguyên thuỷ sang thời đại xã hội có giai cấp, được thực hiện bằng sự hy sinh người phụ nữ (người phụ nữ bị truất hẳn vai trò và quyền hành xã hội, trở thành “nô lệ gia đình” – như cách nói của Lê-nin), thì ở Việt Nam chúng ta, tình trạng đó đã không xảy ra đúng hẳn như thế. Trong khi vẫn đảm bảo đưa lịch sử chuyển tới thời đại mới, những người phụ nữ ở Việt Nam vẫn duy trì được ở mức độ rất đáng chú ý, vai trò quan trọng của họ về nhiều mặt. Sự khảo sát tình hình những thế kỷ trước và sau Công nguyên ở Việt Nam đã cho thấy điều đó. Hiện tượng độc đáo này là tiền đề để cho, trước nhu cầu và điều kiện của thời đại mới, trong hàng nghìn năm sau, người phụ nữ ở Việt Nam cổ đại vẫn có những cống hiến lớn lao vào lịch sử dân tộc.

Nếu ở thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là người chủ yếu giữ việc hái lượm, tham gia cả vào việc săn bắt, rồi làm nghề nông nguyên thuỷ, chăn nuôi, thủ công cùng với những việc trong nhà, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, ở Việt Nam, người phụ nữ vẫn là người tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu lao động trong xã hội và gia đình, trong khi ở nhiều nơi trên thế giới cổ đại, diện hoạt động của người phụ nữ chỉ còn thu lại trong các công việc gia đình mà thôi. Nếu ở hầu hết thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là người đứng đầu cộng đồng thân tộc của họ, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, trong khi ở nơi này nơi khác, gia đình là do người đàn ông làm chủ nhưng ở Việt Nam, điều đó chỉ có trên danh nghĩa, còn trong thực tế, người phụ nữ vẫn là người điều khiển hầu hết công việc gia đình. Nếu ở hầu hết thời đại nguyên thuỷ, phụ nữ là người lãnh đạo và tham gia vào tất cả các hoạt động xã hội, thì đến thời đại xã hội có giai cấp, trong khi ở nơi này nơi khác, phụ nữ mất hẳn chức năng ấy, thì ở Việt Nam, đông đảo phụ nữ vẫn là những “công dân chính trị” rất độc đáo.

Trong hàng vạn năm của xã hội nguyên thuỷ, rồi hàng nghìn năm của xã hội có giai cấp ở Việt Nam, vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất, trong tổ chức gia đình và trong các công việc xã hội là có tính chất truyền thống, liên tục. Chỉ có tuỳ nơi, tuỳ lúc, mới có những biến thiên giảm sát nhất định, nhưng nhiều nhất vẫn chỉ là ở vấn đề tham chính – do bị chế độ phong kiến ra sức gò bó, chèn ép mà thôi.

Chính là nhờ đó mà, nếu vấn đề lớn nhất của thời đại các xã hội có giai cấp ngày xưa ở Việt Nam là việc dựng nước và giữ nước, thì chính người phụ nữ Việt Nam, bằng việc là lao động sản xuất, bằng việc điểu khiển công việc gia đình, bằng các hoạt động xã hội - chủ yếu là việc tham gia đánh giặc và đấu tranh xã hội – đã góp phần cống hiến rất lớn trong suốt bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc.

Đến thời cận đại, trong gần một thế kỷ dưới ách thống trị thực dân, vai trò truyền thống của những người phụ nữ Việt-nam vẫn được duy trì. Và đây là nét nổi bật nhất ở thời gian này: trong khi vẫn thực hiện chức năng lao động sản xuất và quán xuyến việc nhà, người phụ nữ đã tham gia mạnh mẽ hơn vào các phong trào yêu nước và các hoạt động cứu nước, đặt biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng tiền phong. Nếu vấn đề lờn nhất của lịch sử thời kỳ này là sự giải phóng dân tộc, làm cách mạng dân tộc – dân chủ, thì chính những người phụ nữ đã giữ một vai trò xứng đáng góp phần giải quyết vấn đề đó.

Bước sang thời kỳ cách mạng hiện đại, giành chính quyền về tay nhân dân, kháng chiến lần thứ nhất chống thực dân Pháp để bảo vệ độc lập rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước, đặc biệt là kháng chiến lần thứ hai, chống Mỹ cứu nước, tất cả những nhiệm vụ đó của cách mạng, được thực hiện thắng lợi, đều nhờ có những cống hiến to lớn của phụ nữ.

Như thế, liên tục, đều đặn trong hàng nghìn năm của lịch sử, người phụ nữ Việt Nam đã đảm nhiệm vai trò truyền thống của họ trên các lĩnh vực sản xuất, chiến đấu một cách xuất sắc. Từ những điều cụ thể đó, đã nói lên đặc điểm có tính cách bao trùm và nhất quán của người phụ nữ Việt Nam. Ấy là vai trò to lớn của họ trong lịch sử Việt Nam xuyên suốt các thời đại. Chính hiện thực lịch sử này đã góp phần làm sáng tỏ một đặc điểm quan trọng mà nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến, là vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong tất cả các thời đại ở Việt Nam trong đó có vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam.

Vậy thì có thể hình dung ra ba con người khác nhau, nhưng thống nhất, tập trung ở người phụ nữ Việt Nam, tương ứng với ba vai trò truyền thống của họ trong động sản xuất, trong đấu tranh xã hội và trong xây dựng gia đình. Nhìn vào người phụ nữ Việt Nam, chúng ta sẽ thấy hiện ra ba con người rõ nét nhất: Người lao động, Người nội trợ và Người chiến sĩ. Những hình ảnh khác - Người nghệ sĩ, Nhà chính trị ... mờ nhạt hơn, hoặc đồng nhất hoá vào đấy, hoặc tách riêng ra. Và đó là những hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam xưa cũng như nay, nhưng nhất là ngày nay.

II. Những phẩm chất đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam

A.Những phẩm chât tích cực:

1.Con người lao động:

Con người lao động trong người phụ nữ Việt Nam có những phẩm chất đặc sắc nhất định, kết tinh từ trong vai trò của nó trên tiến trình của lịch sử Việt Nam. Làm nên những thuộc tính ấy, có vai trò quan trong hàng đầu của những người phụ nữ nông dân trong hàng nghìn năm của thời đại dựng nước và giữ nước. Đấy là những người đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp đầu tiên do những người phụ nữ lao động từ thời nguyên thuỷ gây dựng, phát huy và truyền tới những người phụ nữ nông dân trong thời cận đại và hiện đại – những người đang cùng với những nữ công nhân, viên chức và phụ nữ lao động trí óc, họp thành đội ngũ những người lao động ngày nay.

Đấy là những người từ hàng nghìn năm xưa và cho mãi đến bây giờ, vẫn gắn bó với một nền kinh tế nông nghiệp nhiệt đới, mà hoạt động quan trọng nhất là nghề trồng lúa nước. Chỉ cho đến gần đây, vấn đề công nghiệp hoá mới được đặt ra ở Việt Nam, nhưng nhịp độ và đặc tính của nó cũng vẫn phản ánh vị trí và qui mô của nền sản xuất nông nghiệp, trong hệ thống kinh tế chung.

Nói đến người phụ nữ lao động Việt Nam chủ yếu là nói đến những người phụ nữ nông dân ấy. Không phải ngẫu nhiên mà ở tất cả các trường hợp cần biểu hiện người phụ nữ Việt Nam một cách cô đúc, điển hình nhất, việc lựa chọn hình tượng người phụ nữ nông dân lại chiếm một tỉ số cao ở Việt Nam. Cho nên trước khi tính toán đến sự cải tiến, biến đổi cốt cách của con người lao động trong người phụ nữ Việt Nam, cần trước tiên xem xét một số thuộc tính đặc sắc đã hình thành và ổn định, trên cơ sở những phong thái làm ăn của người phụ nữ nông dân, trong con người phụ nữ lao động Việt Nam.

Cùng với hiện tượng thường xuyên của lịch sử hàng nghìn năm cũ là người đàn ông phải rời tay cày bừa để cầm lấy vũ khí, với một tinh thần hoàn toàn chủ động, một thái độ bình thản như không có gì tự nhiên hơn, người phụ nữ đã đảm nhiện lấy công việc sản xuất nông nghiệp của xã hội:

“Tháng Chạp là tiết trồng khoai,

Tháng Giêng trồng đậu, tháng Hai trồng cà.

Tháng Ba cày vỡ ruộng ra,

Tháng Tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi.

Tháng Năm gặt hái vừa rồi,

Giời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng. Anh ơi giữ lấy việc công,

Để em cày cấy mặc lòng em đây”.

Việc trồng lúa nước ở Việt Nam trong điều kiện thiên nhiên và kỹ thuật từ trước đến nay, vẫn là một thứ lao động phức tạp và vất vả. Chân lấm tay bùn, giãi nắng dầm mưa, đời này qua đời khác, người phụ nữ Việt Nam là người rất giỏi chịu đựng gian khổ, khó khăn và hết sức cần cù, tỉ mỉ. Sống chết với quê hương làng xóm, bám chặt lấy ruộng vườn, nghề nghiệp, người phụ nữ lao động Việt Nam còn là những người làm việc rất bền bỉ, dẻo dai, có tinh thần kiên trì, nhẫn nại rất cao. Bị thống trị và bóc lột nặng nề, lại gặp hoàn cảnh chiến tranh và thiên nhiên phá phách, trong cuộc sống cơ hàn dai dẳng, những người phụ nữ Việt Nam đã có một tinh thần làm chủ, một ý thức cộng đồng, đồng thời họ cũng là những người rất căn cơ tằn tiện, tính toán cẩn thận, chi ly.

Đấy là những người lao động đảm đang. Và chúng ta hiểu tinh thần đảm đang ở đây có nội dung thiên về mặt ráo riết đối phó với những khó khăn, gắng sức khai thác, vẫy vùng trong một hoàn cảnh chật hẹp để tạo ra những của cải vật chất và tinh thần, để vươn lên trên những điều kiện phần lớn có ý nghĩa tiêu cực. Ở đây, không có những sức bao quát rộng rãi, không có những sáng tạo hàng loạt, to lớn. Không có phong thái ung dung đĩnh đạc mà khẩn trương của một lối làm ăn qui mô, với nhiều thuận lợi về tự nhiên và kỹ thuật. Sự sắc sảo ở đây mang tính chất đối phó trong hoàn cảnh vượt khó nhiều hơn. Hoàn cảnh lao động của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hàng nghìn năm, dưới thời Pháp thống trị gần trăm năm là như thế. Mà hoàn cảnh lao động của những người phụ nữ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước khôngqua thời kỳ chủ nghĩa tư bản cũng có những điều gần giống như thế.

2.Con người nội trợ

Con người nội trợ (quán xuyến việc nhà) trong người phụ nữ cũng có những thuộc tính đặc biệt. Và đây là những điều chủ yếu làm nên cái dáng vẻ riêng của người phụ nữ Việt Nam mà nhiều người đã chú ý. Bởi vì, bình thường, mọi người phụ nữ đều là những thành viên trong các gia đình, gắn bó chặt chẽ với gia đình. Và kể từ thời kỳ mẫu quyền trong lịch sử nguyên thuỷ cho tới bây giờ, trong hàng nghìn, hàng vạn năm, chức năng hiển nhiên của các thành viên nữ trong các gia đình, chính là nội trợ.

Vai trò của những người phụ nữ Việt Nam trong gia đình, như đã thấy, là một vai trò rất đặc biệt. Đó là vai trò thực tế của người chủ gia đình, vài trò thực tế của những trụ cột gia đình - mặc dù về hình thức và trên danh nghĩa, đấy là vai trò của người đàn ông. Là một người vợ, gắn bó chữ tình với chữ nghĩa, người phụ nữ xưa, ngoài nghĩa vụ đối với bản thân người chồng, còn gánh vác luôn cả phần nghĩa vụ của người chồng đối với gia đình và xã hội.

“Lấy gì đóng góp cho chồng

Lấy gì giỗ chạp Thổ công, ông bà.

Lấy gì nuôi mẹ nuôi cha,

Lấy gì thu xếp việc nhà chàng ơi.

Lấy gì cho ngựa cho cho voi,

Lấy gì đóng góp như đôi láng giềng”.

Trong vai trò thực tế ấy, người phụ nữ như thế nào thì gia đình như thế. Ngược lại, tình trạng và hoàn cảnh của các gia đình Việt Nam như thế thế nào, tất nhiên cũng ảnh hưởng đến người phụ nữ: họ cũng phải tạo ra những bản lĩnh cần thiết để có thể thích ứng với vai trò của họ.

Các gia đình Việt Nam với chế độ phụ quyền gia trưởng, hình thành và ổn định lâu dài trên tiến trình lịch sử Việt Nam, trở nên có một cấu trúc độc đáo với đặc điểm kỳ lạ của nó: đấy là nơi giam hãm trói buộc người phụ nữ, nhưng lại do phụ nữ thực tế làm chủ và làm trụ cột! Từ đặc điểm này, chúng ta thấy phụ nữ là người sống chết gắn bó rất chặt chẽ với gia đình về mọi mặt, và đấy là những người nội trợ có tinh thần đảm nhiệm, phụ trách rất cao. Đảm nhiệm, phụ trách nền kinh tế của gia đình, họ có chung những phẩm chất tinh thần với những người phụ nữ lao động, như đã thấy. Đảm nhiệm, phụ trách giường mối của gia đình, toàn bộ thể chế và nội dung tinh thần của gia đình, đây mới là lĩnh vực kết tinh những thuộc tính đặc sắc của người phụ nữ nội trợ Việt Nam. Ở đây, những người vợ Việt Nam là những người thuỷ chung trọn vẹn với chồng. Ở đây, những người mẹ Việt Nam hy sinh trọn vẹn cho con cái. Ở đây, những người con gái, con dâu, nết na, thảo hiền đối với bậc trên và rèn luyện những đức tính của người mẹ đối với lớp tuổi dưới, cũng như chờ dịp thể hiện những đức tính của người vợ đối với người yêu, người chồng tương lai của mình.

Trong tình hình nghèo khó chung của các xã hội có giai cấp cũ, “cái khó bó cái khôn”, người phụ nữ đã phải rất tích cực “giật gấu vá vai” để đảm nhiệm chức năng “nội tướng” của mình. Tần tảo là đức tính đi kèm với tinh thần đảm đam của các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa, chịu thương chịu khó, sớm tối lam làm, suốt đời cần kiệm để gánh vác gia đình. Để có thể đảm đương một khối lượng công việc lớn và phức tạp, người phụ nữ xưa còn rất khéo léo và thông minh, có đầu óc thực tiễn và khéo chân khéo tay.

Tính khiêm nhường, lòng vị tha, đức hy sinh và lòng yêu thương rộng lớn của người phụ nữ tỏa ra trong các gia đình, khiến cho người phụ nữ xưa có một vị trí rất đặc biệt giữa chồng con của họ. Người chồng gọi vợ mình là “nội tướng”. Con cái nhận rằng “phúc đức tại mẫu”. Người ngoài khẳng định “lệnh ông không bằng cồng bà”. Và dân tộc thì, trong khi xây dựng hình tượng anh hùng đầu tiên của mình về Thánh Dóng, cũng kèm ngay hình tượng mẹ Dóng – người mẹ bao tháng này mang nặng đẻ đau, chịu đựng tai tiếng, để rồi suốt ba năm kiên trì thương yêu nuôi nấng, chăm sóc đứa con tật nguyền, cho đến lúc tự tay mình mở đường cho con đi cứu nước.

Đấy là những người nội trợ trung hậu. Và chúng ta hiểu rằng sự trung hậu ở đây có phần được tạo rèn tự sự đấu tranh, khi âm thầm, lúc quyết liệt, của người phụ nữ trong hàng nghìn năm liên tục đối với giáo lý và sự ràng buộc gò bó phong kiến, để cố gắng cải tạo nó, biến những tín điều khe khắt trở thành đức hạnh, nết na. Nhưng đây chỉ là vấn đề phụ. Điều chủ yếu ở đây là vai trò lịch sử của người phụ nữ đối với vấn đề gia đình ở Việt Nam, mà họ đã đảm nhiệm lấy một cách tự nhiên bình dị. Điều chủ yếu ở đây cũng là sự thiệt thòi, chịu đựng của họ tronmg khi gánh vác và quản lý gia đình. Đó là một nghĩa vụ cao cả. Sự cao cả này có ý nghĩa đạo đức lớn, nhưng chính cũng vì đạo đức mà cần phải tiếp sức và đền bù xứng đáng cho sự cao cả đó, không thể coi là một khổ hạnh tất yếu của con người nội trợ trong người phụ nữ Việt-nam.

3.Con người chiến sĩ

Con người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam là một hiện tượng độc đáo nhất. “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”, đấy là truyền thống đặc biệt của phụ nữ Việt Nam. Chỉ tính từ thời các vua Hùng dựng nước cho đến nay, 24 cuộc chiến tranh ái quốc với quy mô cả nước đã nổ ra để giữ nước! Biết bao thế hệ phụ nữ đã trở thành chiến sĩ trong những lần vận nước gặp nguy nạn. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong cuộc đấu tranh giai cấp thường xuyên làm nền cho sự tiến hoá của xã hội, tất cả các thế hệ phụ nữ - với đặc điểm là “công dân chính trị” của họ, cũng đều trở thành những chiến sĩ, tham gia đấu tranh dưới mọi hình thức. Từ những người phụ nữ đã nổi dậy dưới lá cờ Hai Bà Trưng, những vợ ba Cai Vàng, vợ ba Đề Thám... thậm chí cả những người vô danh:

“Gái goá lo việc triều đình

Lo Nam, lo Bắc việc mình không lo”

và những mẹ Đốp luôn luôn sẵn sàng tấn công bọn hào lý ở khắp nơi, cho đến những Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Chiêm, Út Tịch và mẹ Suốt ngày nay – hàng trăm thế hệ phụ nữ đã truyền đi và nhân lên những thuộc tính đặc sắc của người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam.

“Túi gấm cho lẫn túi hồng

Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân”.

Câu hát cổ trên cũng là một hình thức ghi nhớ của nhân dân đối với tiết bao người vợ đảm xưa đã góp vào cuộc chiến chung, và không têm trầu “cánh phượng” nữa, mà têm trầu “cánh kiếm”, nô nức, hồ hởi tiễn đưa người thân của mình ra đi. Đó là những con người có một lòng yêu nước rộng lớn và một tinh thần lo toan rất tích cực đến việc chung. Đó là con người sẵn sàng chịu đựng với một sức bền kỳ diệu những gay go gian khổ, những hy sinh to lớn nhất. Đó là những con người bất khuất, không sức mạnh thống trị nào có thể đè bẹp nổi, những con người rất mực kiên cường, không sức mạnh xâm lược nào có thể bẻ gãy được.

Đấy là những chiến sĩ dũng cảm. Và chúng ta hiểu rằng, đối với người phụ nữ Việt Nam, đấy là phẩm chất của những người chiến sĩ có sức mạnh sở trường ở phương diện tinh thần, tình cảm. Trong hoàn cảnh khó khăn gò bó thường xuyên, khả năng vât chất và kỹ thuật của những chiến ở đây không nhiều. Nhưng những cơ sở và điều kiện để tạo ra những khả năng đó, lúc nào cũng có. Đó là những phẩm chất của người lao động và người nội trợ ở trong con người phụ nữ Việt Nam. Khi cần thiết, chỉ cần thời gian, sự tổ chức và tập hợp. Và đấy là điều đặc sắc, thuân lợi và may mắn cho người phụ nữ và cho dân tộc: lúc nào cũng có con người chiến sĩ với những phẩm chất rất tốt nằm trong những người phụ nữ Việt Nam.

Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - những con người ấy cùng với những thuộc tính, phẩm chất tinh thần của nó đã hợp thành tính cách cơ bản của người phụ nữ Việt-nam. Ở một tính cách đa dạng và phong phú như thế, có thể lọc ra, tìm lấy điều gì chung nhất, điều gì bao trùm, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt-nam?

Trong những lúc vận nước gặp cơn sóng gió, con người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam vụt trội lên. Hiện nay, đây là điều đang thu hút sự chăm chú của nhiều người. Nhưng hãy tìm đọc cuốn sổ tay tác chiến của đại đội trưởng pháo bờ biển nữ dân quân xã N. (Quảng Bình), chi tiết kỹ thuật và tình hình chiến sĩ với vũ khí, khí tài, tự nhiên có những dòng rõ ràng không đúng điều lệnh quân sự: “Nếu nạp lên, trên không nhận, sẽ cho giữ vỏ đạn lại, chờ đánh xong giặc Mỹ, sẽ đem đúc nồi đồng”! Con người lao động và nội trợ trong người chiến sĩ Ngô Thị The ấy đang để lộ tính cách cơ bản của mình. Và hình ảnh quen thuộc, gần gũi về vị Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam Nguyễn Thị Định, cũng là hình ảnh một người mẹ, một người chị, ngồi trên chiếc võng đã chiến, kim chỉ và chiếc áo trong tay, trìu mến nhìn và chăm chú nghe chiến sĩ. Đấy chính là một phụ nữ:

“Lúc tiến lệnh đều trăm đội ngũ,

Đêm về ngồi vá áo chiến binh!”[1]

Như thế, con người lao động và con người nội trợ ở trong mỗi người phụ nữ Việt Nam mới chính là hình ảnh thường hằng về họ, Con người chiến sĩ, lúc nổi lên thật rạng rỡ, nhưng nhiều lúc vẫn lẩn vào con người lao động và nội trợ, có khi ngay cả vào dịp đang xuất hiện rõ rệt nhất, nó cũng mang cốt cách của hai con người kia. Người phụ nữ nông dân Cao Thị Thả ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá), chèo thuyền xông ra biển dưới bom đạn của máy bay Mỹ, diệt cả bọn giặc lái nhảy dù lẫn máy bay đậu trên nước và máy bay lên thẳng của giặc, nhưng vẫn nói rất đúng: “Phải nói công bằng rằng không có thằng giặc Mỹ thì đàn bà chúng tôi mới không phải cầm đến khẩu súng này”. Và bà mẹ Suốt, lập nên kỳ tích trong phục vụ chiến đấu: hàng chục, hàng trăm lần chèo thuyền đưa cán bộ, bộ đội vượt sông trước mưa bom bão đạn, khi được nhà thơ Tố Hữu thán phục hỏi: “Gan chi gan rứa mẹ nờ?”, vẫn chỉ coi trận chiến đấu của mình như là những lần làm ăn bình thường của ông lão ở nhà: “Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!”.

Phong thái bao trùm cốt cách và tâm hồn cơ bản của người phụ nữ Việt-nam đã được tìm thấy ở trong những trường hợp đó. Đấy là sự bình dị, là lòng nhân ái, là ân tình và yêu thương đằm thắm. Chính những điều đó đã làm cho người phụ nữ Việt Nam cần cù, tỉ mỉ, nhẫn nại, dẻo dai, căn cơ, tần tiện, chịu khổ, chịu khó mà lao động đảm đang. Bản thân người phụ nữ dường như không còn thấy đặt ra nhu cầu hưởng thụ gì to tát, nhưng chính là vì chồng con, họ hàng rồi xóm làng, rồi là vì đất nước, vì tình thương yêu tất cả mà họ đã lao động. Cũng chính là với tấm lòng trung hậu, với tình thương yêu mênh mông đối với người thân của mình, rồi với đồng bào chân chính của mình mà người phụ nữ đã thuỷ chung hy sinh, quán xuyến, trong khi làm nghĩa vụ nội trợ. Và cũng chính là vì tấm lòng nhân ái bao trùm mà người phụ nữ đã chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng chịu đựng và hy sinh oanh liệt.

Khi nhà thơ Chế Lan Viên hỏi một nữ anh hùng: “Vì sao em chiến đấu?” thì thật cảm động là câu trả lời: “Em thương. Em thương các anh quá, nên em liều. Em thấy máu đổ là em thương...”. Cũng thế, hỏi cô Cam Thị Thưng vì sao 17 tuổi, với người bé nhỏ nhưng đã vượt qua bom đạn, cõng bổng được một đồng chí bộ đội bị thương về nơi cứu chữa an toàn; chúng ta cũng được nghe câu trả lời của cô qua nụ cười ngượng nghịu: “Em nghĩ thương các anh mà cõng thấy nhẹ...”. Trái tim nhân ái của phụ nữ Việt Nam là một trái tim lớn. Trái tim đó mang nặng tình thương yêu chính nghĩa nên có lòng căm giận kẻ thù bất nhân mà chiến đấu. “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” - Nguyễn Đình Chiểu xưa đã phát hiện và khẳng định đặc điểm tâm lý ấy của Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam.

Lòng nhân ái có thể xem như là hạt nhân cơ bản trong tính cách người phụ nữ Việt Nam. Lòng nhân ái đó lớn mênh mông trong suốt tiến trình lịch sử đấu tranh của dân tộc, làm nền cho những phẩm chất tinh thần phong phú, đặc sắc, những khả năng và vai trò thực tế to lớn của họ.

Chúng ta cũng biết rằng sức mạnh và vẻ đẹp Việt Nam, xưa và nay, cũng có nguồn gốc từ lòng nhân ái. Từ Hùng Vương, Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh, tinh thần ấy là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Phải chăng, tinh thần ấy chính là từ người phụ nữ Việt Nam mà truyền đi và được nhân lên gấp bội? Bởi vì ở đây, hơn ở đâu hết, có vai trò của những người mẹ Việt Nam, những người mẹ xứng đáng với lời biểu dương của Hồ Chủ tịch: “Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh ra và nuôi dạy nên những thế hệ anh hùng của nước ta[2].

B.Những phẩm chất tiêu cực

Chế độ phong kiến cùng với lễ giáo Khổng Mạnh và chế độ tôn pháp không những đã áp bức, bóc lột, gò bó, kìm hãm phụ nữ mà còn là chế độ coi khinh và làm nhục phụ nữ. Chính vì thế từ cuối thế kỷ XV trở đi đã dấy lên phòng trào phản kháng của phụ nữ chống phong kiến với một tư thế dũng cảm, ý chí quyết liệt và hành động tích cực.

Để đáp lại thuyết “nam tôn nữ ty” phong kiến là những lời lẽ trào động dân gian:

“Ba đồng một mớ đàn ông,

Đem bỏ vao lồng cho kiến nó tha.

Ba trăm một mụ đàn bà.

Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi!”

Phản bác lại mệnh lệnh “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” là câu ví sắc sảo:

“Một trăm con trai không bằng lỗ tai con gái”

Cự tuyệt lời dụ dỗ đường mật của bọn quyền quý:

“Ăn góc quả hồng, ăn cạnh quả hồng

Còn hơn ăn cả chùm sung chát sì”

là lời tuyên bố dứt khoát và thông minh:

“Đói lòng ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng!”

Trả lời câu quyết rũ xỏ xiên:

“Một đêm quân tử nằm kề,

Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm”

là thái độ dửng dưng mà đằm thắm tuyệt đẹp:

“Chồng ta áo rách ta thương,

Chồng người áo gấm xông hương mặc người!”

Đó là sự phản ánh hành động phản kháng quyết liệt chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến của những phụ nữ đương thời. Tuy nhiên, do trải qua hàng nghìn năm thống trị của chế độ phong kiến cũng đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với người phụ nữ.

Trong hàng nghìn năm bị gạt ra khỏi cuộc sống xã hội, mặc dầu cố vươn lên như bông sen, lá súng ngoi khỏi bùn nước để trổ ra với trời mây, nhưng mất địa vị tương xướng với vai trò của mình, bị cả một chế độ với những áp lực nặng nề bao vây, lại thêm ảnh hưởng dai dẳng của mấy chữ “tòng”, chữ “hiếu”, trong những con người phụ nữ xưa, dần dần cũng tồn tại tư tưởng an phậntự ti, thái độ cam chịu và thụ động. Hạt mưa, tấm lụa là hình ảnh người phụ nữ xưa thường so sánh với thân phận của mình:

“Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.

“Thân gái như hạt mưa sa

Hạt rơi gác tía, hạt ra ngoài đồng!”

Cuộc sống tù túng chật hẹp trong các gia đình, hằng ngày phải va chạm với nhiều việc không tên: thu vén từng cọng rơm cái rác để đun một nồi cơm nhỏ, nuối lấy vài ba con gà nhưng chẳng may lại có một con… bị mất, người phụ nữ xưa có phần bị bó lại trong những tính toán thiển cận, thái độ hẹp hòi, nhiều khi bị đắm đuối vào ngay những xích mích nông nổivụn vặt giữa những người cùng giới và cùng chung cảnh ngộ với nhau. Có khá nhiều trường hợp người phụ nữ phải mất hầu trọn tâm tư và tài trí của mình vào giải quyết mối quan hệ vợ cả vợ lẽ, mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng,… trong khuôn khổ chật hẹp của các gia đình xưa.

“Em chồng ở với chị dâu,

Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày!”

“Chị em dâu như bàu nước lã”.

Cũng vì bị cấm cửa đối với xã hội, không được học hành, lại bị vây hãm trong một chế độ trì trệ, các thế hệ phụ nữ giữa “đêm trường trung cổ” không thể nào mở mang trí tuệ, nên nhiều khi suy nghĩ và hành động lúng túng trong bóng tối của mê tín dị đoan, sự hiểu biết nhiều khi nông cạn, thiếu hẳn ánh sách của văn hóa khoa học. Đây là một điều thực tế đã hạn chế rất nhiều khả năng cống hiến cua họ và đã góp phần đắc lực vào việc kìm hãm, áp bức họ.

Kết luận

Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - đấy là hình ảnh truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Và đấy là những truyền thống đã hình thành ổn định trong suốt quá trình lịch sử lâu dài. Những người phụ nữ Việt Nam hiện đại mang trong mình truyền thống đó và ngày càng tự giác phát huy truyền thống đó trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Khẳng định điều này, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt-nam đã tặng danh hiệu “Dũng cảm, đảm đang chống Mỹ cứu nước” cho thế hệ phụ nữ Việt-nam hiện đại. Và Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng đã tuyên dương danh hiệu “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” cho phụ nữ toàn miền Nam.

Trong thời đại phát triển hiện nay, chính những phẩm chất tinh thần ấy đã tạo ra một sức mạnh mới cho người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh xây dựng đất nước. Phụ nữ Pháp đã nói với phụ nữ Việt Nam: “Cảm ơn gương sáng của các bạn đã làm cho danh từ “phẩm chất” giữ được trọn vẹn ý nghĩa thực sự của nó[3]. Phụ nữ Lào cũng đã nhận xét: “Những thành tích to lớn và vẻ vang của chi em phụ nữ Việt Nam là một tấm gương quí báu và sự cổ vũ to lớn, động viên phụ nữ chúng tôi quyết tâm, dũng cảm trong đấu tranh vì sự tiến bộ của mình[4]

Những ý kiến trên đây là xuất phát từ sự nhận thức của các bạn quốc tế về phẩm chất tinh thần truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Mọi người đều biết rõ: về nhiều mặt, phụ nữ Việt Nam còn đang gặp những khó khăn trở ngại, còn đang có những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Nhưng chính là, với những phẩm chất tinh thần đặc sắc của mình, phụ nữ Việt Nam đã được phụ nữ thế giới ca ngợi, đã được xem như một trong những hình tượng đẹp đẽ và trong sáng và thế giới cách mạng.

Với tinh thần dân tộc và ý thức độc lập tự chủ mạnh mẽ, với bản sắc dân tộc đậm đà, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp thực sự to lớn trong suốt tiến trình lịch sử xã hội Việt Nam đối với sợ phát triển dân tộc Việt Nam đã quy định đặc thù của người phụ nữ Việt Nam. Đó là những yếu tố rất cơ bản, những yếu tố cội nguồn để phụ nữ Việt Nam cùng với cả dân tộc mình khắc phục những nhược điểm và khó khăn, phát huy những ưu điểm và thuận lợi, nhằm đẩy mạnh đổi mới đất nước, tăng cường khả năng để không những hòa nhập mà còn đóng góp vào sự tiến bộ của thế giới ở thế kỷ XXI.

Lê Thị Nhâm Tuyết (http://hoilhpn.org.vn)/(*)



(*) Nhà nghiên cứu Nhân học Xã hội, Giám đốc sáng lập Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (CGFED)

[1] Lưu Trong Lư: Người con gái Sông Gianh.

[2] Lời Hồ Chủ Tịch, tháng 10 - 1966

[3] Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Pháp gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam, ngày 18 – 2 – 1969.

[4] Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Lào gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam, ngày 20 – 7 –1967.

Các tin khác